Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 8: Tổng lược lịch sử Phật giáo vào thời nhà Trần (1225 - 1400) - I. Các vua nhà Trần với Phật giáo

- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 1 - 2: Phật giáo du nhập vào Việt Nam - Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam thế kỷ I -V
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 3: Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ VI đến thế kỷ IX
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 4: Phái thiền Tì-ni-đa-lưu-chi
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 5: Phái thiền Vô Ngôn Thông
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 6: Lịch sử Phật giáo vào thời nhà Ngô, nhà Đinh và nhà Tiền Lê (939 - 1009)
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 7: Tổng lược lịch sử Phật giáo vào thời nhà Lý (1009 - 1225)
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 8: Tổng lược lịch sử Phật giáo vào thời nhà Trần (1225 - 1400) - I. Các vua nhà Trần với Phật giáo
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 8: Tổng lược lịch sử Phật giáo vào thời nhà Trần (1225 - 1400) - II. Thiền phái Trúc Lâm - 3. Tam tổ Trúc Lâm
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 8: Tổng lược lịch sử Phật giáo vào thời nhà Trần (1225 - 1400) - III. Sự mất dấu của Phái thiền Trúc Lâm
Thái tông thấy rõ chỉ có con đường tu hành theo Phật giáo mới có thể giải thoát khỏi cuộc đời vô thường, kiếp người đầy phiền não khổ lụy và mới giải thoát khỏi luân hồi nhân quả.
CHƯƠNG VIII :
TỔNG LƯỢC LỊCH SỬ PHẬT GIÁO
VÀO THỜI NHÀ TRẦN (1225 – 1400)
I.CÁC VUA NHÀ TRẦN VỚI PHẬT GIÁO.
1.Trần Thái Tông (1225-1258)
Vua Trần Thái Tông tên là Trần Cảnh, trước tên húy là Bồ, sanh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), quê ở hương Tức Mặc, sau được đổi lại là phủ Thiên Trường (nay thuộc huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), cha là Trần Thừa (con của Trần Lý), mẹ họ Lê.
Họ Trần sống về nghề đánh cá ở hương Tức Mặc, đến đời Trần Lý trở nên giàu có nổi tiếng ở địa phương. Vào khoảng năm 1209 triều đình nhà Lý suy yếu, trong cuộc nổi loạn của Quách Bốc, vua Lý Cao Tông phải chạy loạn. Thái tử Sảm lấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung làm vợ, phong cho Trần Lý tước Minh tự và phong cho cậu của Dung là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Gia đình Trần Lý giúp vua dẹp được giặc, dần dần có nhiều thế lực trong triều đình.
Năm Canh Ngọ (1210), vua Lý Cao Tông băng hà, Thái tử Sảm lên ngôi, tức làvua Lý Huệ Tông. Vua lập Trần Thị Dung làm Nguyên phi. Sau đó vua phong Nguyên phi làm Hoàng hậu, phong chức tước cho các anh của Hoàng hậu, Trần Tự Khánh làm thái úy phụ chánh, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ.
Từ năm 1217, vua Lý Huệ Tông bị bệnh điên, có khi tự xưng là thiên tướng giáng trần, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ trên búi tóc, nhảy múa suốt ngày đêm, có khi uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh. Quyền hành trong triều đình đều nằm trong tay Thái úy Trần Tự Khánh, Trần Thừa và Trần Thủ Độ. Năm 1223, Thái úy Trần Tự Khánh chết, quyền hành nằm trong tay Phụ quốc Thái úy Trần Thừa và Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ.
Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), vua Lý Huệ Tông xuất gia tu hành ở chùa Chân Giáo trong đại nội, kinh thànhThăng Long, truyền ngôi cho Công chúa Chiêu Thánh (mới 7 tuổi), tức Lý Chiêu Hoàng. Năm sau (1225), con của Thái úy Trần Thừa là Trần Cảnh được phong làm Chính thủ theo hầu Lý Chiêu Hoàng, sau đó Lý Chiêu Hoàng nhận Trần Cảnh làm chồng (cả hai mới 8 tuổi). Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, tức vua Trần Thái Tông.
Ngày 10 tháng 8 năm Bính Tuất (1226), Thái sư Trần Thủ Độ đến chùa Chân Giáo thấy Lý Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ ở trước sân chùa, Thủ Độ nói: “Nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc “. Huệ Tông đáp: “Điều ngươi nói ta hiểu rồi”. Huệ Tông vào chùa tụng kinh xong khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã về tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, ngày sau con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế “. Sau đó Huệ Tông ra vườn phía sau chùa thắt cổ tự tử. Thái sư Trần Thủ Độ cho đưa linh cữu Thượng hoàng Lý Huệ Tông ra phường Yên Hoa hỏa thiêu và đem xương vào thờ trong tháp ở chùa Bảo Quang. Hoàng hậu (Trần Thị Dung) bị giáng làm Công chúa Thiên Cực và gả cho Trần Thủ Độ, sau đó được phong làm Quốc mẫu.
Qua đoạn sử được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư như trên, chúng ta nghiên cứu kỹ sẽ thấy rằng: Việc vua Lý Huệ Tông bị bệnh điên có thể là do áp bức hay trù ếm của gia đình Trần Thừa và việc vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi cũng do sự ép buộc của Trần Thừa và Trần Thủ Độ. Đến việc Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh (cả hai mới 8 tuổi) và nhường ngôi cho Trần Cảnh, cùng việc ép buộc Lý Huệ Tông tự tử cũng là do sự cưỡng ép của hai ông này (nhà Trần cướp ngôi nhà Lý như thế vào năm 1225; sau này đến năm 1399, nhà Trần cũng bị nhà Hồ cướp ngôi giống như vậy, sự việc xảy ra theo đúng “lý nhân quả luân hồi“trong Phật giáo).
Vua Trần Thái Tông tôn cha là Trần Thừa làm Thái thượng hoàng, phong cho anh cả là Trần Liễu làm Thái úy Phụ chính, sách phong là Hiển Hoàng. Trần Thủ Độ được cử làm Thống quốc Thái sư.
Năm 1233, Thái hậu mất, không đầy 2 năm sau(1234), thượng hoàng Trần Thừa lại mất, vua Trần Thái Tông trở thành mồ côi, lúc mới 16 tuổi. Vua rất buồn khổ và cô đơn trong cung điện, chán ngán trước cảnh sanh tử luân hồi, sự vô thường của cuộc đời và việc tranh danh đoạt lợi trong chốn hoàng cung và triều đình … Vua Trần Thái Tông đã bắt đầu tìm hiểu về giáo lý của đạo Phật và chán cảnh làm vua, có ý muốn đi tu.
Đến đầu năm Bính Thân (1236), Thái sư Trần Thủ Độ lại ép vua Trần Thái Tông phế bỏ Hoàng hậu Chiêu Thánh để lấy chị vợ là công chúa Thuận Thiên (vợ Trần Liễu) vì Chiêu Thánh không có con, trong lúc Thuận Thiên đang mang thai (sau này sinh ra Trần Quốc Khang). Trước việc bị ép buộc làm việc loạn luân đó, lại sắp đến ngày các quan trong triều đình phải làm lễ thề “Trung quân “ (vào ngày mùng 4 tháng 4 âm lịch) nên vào khoảng nửa đêm mùng 3 tháng 4 năm Bính Thân (1236), vua quyết định bỏ ngai vàng lên núi Yên Tử tu hành. Vua kể lại việc này trong bài tựa sách “Thiền tông chỉ nam” như sau: “Trẫm trộm nghĩ: Phật không chia Nam Bắc, đều có thể lấy sự tu hành mà tìm đến. Tánh người tuy có kẻ khôn người ngu, nhưng nhờ giác ngộ mà hiểu biết. Vì vậy, đạo giáo của đức Phật là phương tiện để dẫn dụ người mê muội, chỉ con đường tắt để hiểu rõ sự sanh tử. Còn như cầm cân nẩy mực cho đời sau, làm khuôn phép cho tương lai đó là trách nhiệmcủa các bậc tiên thánh. Cho nên Lục Tổ (Huệ Năng) đã nói: “Bậc đại thánh nhân cùng với đại sư không khác gì nhau“. Như thế đủ biết đạo giáo của đức Phật cũng phải nhờ tiên thánh mới truyền bá được cho đời sau. Nay trẫm sao lại không lấy trách nhiệm của tiên thánh làm trách nhiệm của mình, lấy giáo lý của đức Phật làm giáo lý của mình. Vả lại khi tuổi thơ, vào lứa tuổi mới hiểu biết, mỗi khi nghe lời giảng dạy của các thiền sư, tức thời dẹp hết mọisự suy nghĩ, trong tâm hết sức thanh tịnh. Lúc bấy giờ trẫm có ý say mê kinh điển Phật, muốn hiểu biết Thiền tông quyết chí tìm thầy, thành tâm mộ đạo. Tuy nhiên tâm hồi hướng theo với đạo đã manh nha, nhưng động cơ cảm xúc vẫn chưa đạt được.
Năm mười sáu tuổi, Thái hậu từ giã cõi đời, trẫm thường nằm ôm gối đất khóc ra nước mắt, ruột đau như cắt. Trong lúc quá buồn khổ không còn lòng dạ nào nghĩ đến việc khác. Chỉ vài năm sau, Thái tổ Hoàng đế (Thượng hoàng Trần Thừa) lại cũng qua đời. thương mẹ chưa khuây, xót thương cha càng thấm thía. Đau xót ngổn ngang khó nguôi nỗi buồn. Trẫm nghĩ công cha mẹ đối với con, nuôi nấng vỗ về, chăm sóc đủ thứ, dù có xương tan nát thịt cũng chưa báo đền được một phần trong muôn phần. Hơn nữa trẫm nghĩ: Thái tổ hoàng đế mở cờ dựng nghiệp đã rất khó khăn, trị nước giúp đời lại càng quan trọng khó nhọc. Ngài đem ngôi báu trao lại cho trẫm từ lúc còn ấu thơ, khiến trẫm ngày đêm lo sợ đứng ngồi không yên. Trẫm tự nghĩ thầm rằng: ở trên đã không có cha mẹ để nương nhờ, ở dưới cũng sợ rằng không đáp ứng nổi sự mong mõi của lê dân, biết phải làm sao đây? Trẫm suy đi nghĩ lại: hay là lui về chốn rừng núi tìm hiểu giáo lý đạo Phật, hiểu rõ nghĩa trọng đại của sự sanh tử, cũng là để đền đáp lại công ơn khó nhọc cha mẹ, như thế chẳng tốt hơn hay sao? Thế là chí trẫm đã quyết định:
“Vào đêm mùng 3 tháng 4 năm Bính Thân (1236) niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ năm, trẫm cải dạng mặc thường phục đi ra cửa cung, bảo với kẻ hầu cận rằng: “Trẫm muốn ra ngoài thành du ngoạn ngầm nghe tiếng nói của dân, xem chí nguyện của dân, ngõ hầu biết được sự khó khăn của họ“. Lúc đó theo hai bên trẫm chỉ bảy, tám người. Vào giờ Hợi đêm ấy, trẫm cởi ngựa lẻn trốn ra đi. qua sông đi về hướng Đông, trẫm mới thật tình bảo cho các người theo hầu biết, họ rất ngạc nhiên và rơi nước mắt.
Hôm sau vào giờ Mão (5 đến 7 giờ sáng), đi đến bến đò Đại Than ở chân núi Phả Lại, trẫm sợ có người biết mặt, phải lấy áo che mặt khi qua sông, rồi theo đường tắt lên núi. Đến tối vào nghĩ trong chùa Giác Hạnh đợi sáng lại đi. núi hiểm suối sâu, leo trèo chật vật, ngựa mệt mỏi không thể tiến lên được nữa, trẫm bỏ ngựa vịn vào vách đá mà đi. đến giờ Mùi (13 giờ đến 15 giờ), thì đến núi Yên Tử (huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh).
Sáng hôm sau trèo thẳng lên đỉnh núi, vào tham kiến Quốc sư Trúc Lâm, một bực đại Sa môn (Quốc sư Phù Vân). Quốc sư chợt thấy trẫm mừng rỡ, ung dung bảo rằng: “Lão tăng ở nơi rừng núi đã lâu, mặt đầy xương cứng, ăn rau đắng, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh núi rừng, tâm như mây trôi, nên theo gió mà đến đây. Nay bệ hạ bỏ ngôi chủ của thiên hạ, tìm đến cảnh núi rừng nghèo hèn, chẳng hay bệ hạ muốn cầu điều gì mà đến chốn này vậy ?”.
Trẫm nghe lời Quốc sư nói, rơi hai hàng nước mắt nói với Quốc sư rằng: “Trẫm còn thơ dại, cha mẹ mất sớm, một mình bơ vơ đứng trên đám sĩ dân, không biết nương tựa vào đâu? Lại nghĩ đến sự nghiệp của đế vương ngày trước hưng phế thịnh suy thay đổi bất thường; cho nên, hôm nay trẫm lên núi này, chỉ muốn làm Phật chứ không cầu một vật gì khác”.
Quốc sư đáp: “Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ có trong tâm. Tâm vắng lặng thì trí tuệ khai mở, đó chính là Phật. Nếu hôm nay bệ hạ ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật, không cần phải khổ công tìm kiếm bên ngoài”.
Ngày hôm sau, Thái sư Trần Thủ Độ dẫn các đại thần trong triều đình và các bô lão lên núi Yên Tử yêu cầu vua trở về triều đình. Từ chối không được, vua đành trở về Hoàng cung. Quốc sư cầm tay vua nói: “Đã làm vua của nhân dân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về triều đình, bệ hạ không thể không về được. Tuy nhiên việc nghiên cứu tìm hiểu kinh điển Phật giáo, xin Bệ hạ luôn luôn để tâm, đừng giây phút nào quên”.
Vua về kinh đô, dù giữ ngôi vua lo việc triều chính, nhưng lúc nào vua cũng nhớ lời dặn của Quốc sư Trúc Lâm (hay Quốc sư Phù Vân), khi việc nước nhàn rỗi, vua lúc nào cũng nghiên cứu kinh sách Phật và thường mời các cao tăng thạc đức đến tham hỏi về thiền học.
Khi Thái sư Trần Thủ Độ ép vua lấy Thuận Thiên làm hoàng hậu, Hoài vương Trần Liễu chỉ huy thủy quân nổi loạn, nhưng thế yếu phải lấy thuyền nhỏ giả làm người đánh cá đến thuyền rồng của vua Trần Thái Tông xin đầu hàng, vua và Trần Liễu nhìn nhau mà khóc. Thái sư Thủ Độ nghe tin, đến thuyền rút gươm định giết Trần Liễu, vua phải lấy thân mình che chở cho anh. Thái sư tức lắm ném gươm xuống sông. Vua phải giảng hòa bảo Thủ Độ rút quân về, vua phong Trần Liễu làm An Sinh vương và lấy đất các xã Yên Sinh, Yên Phụ, Yên Hưng, Yên Dưỡng làm ấp thang mộc.
Năm Đinh Mùi (1247), vua cho mở khoa thi Thái học sinh để tuyển nhân tài ra làm quan.
Năm Mậu Thân (1248), theo lời Trần Thủ Độ, vua sai những Thầy Địa lý (Phong thủy học) đi xem khắp các núi sông trong nước tìm các long mạch để khai thông và bảo vệ.
Năm 1249, vua cho trùng tu chùa Diên Hựu (chùa Một Cột).
Năm 1252, vua đem quân đánh Chiêm Thành.
Năm 1253, vua mở mang Nho giáo và Lão giáo, lập Quốc học viện để dạy cho các nho sinh.
Năm 1258, vua Thái Tông và Thái tử đánh bại quân Mông Cổ, giữ vững độc lập cho đất nước.
Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông lên làm Thái thượng hoàng, nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng tức vua Trần Thánh Tông.
Ngay từ sau khi trốn lên núi Yên Tử trở về (năm1236), vua Thái Tông ngoài việc triều chính để thì giờ nghiên cứu kinh sách Phật hoặc mời các bực đức kỳ tài vào cung điện để tham học về Thiền tông như Quốc sư Phù Vân, các thiền sư Tức Lự, Ứng Thuận … Ngoài ra vua còn mời cả thiền sư ngoại quốc đã đến Đại Việt Hoằng hóa là thiền sư Thiên Phong (phái Lâm Tế, đời 20) đến viện Tả Nhai để cùng các thạc đức tham khảo về Thiền học.
Vua Trần Thái Tông chủ trương “Tam giáo đồng nguyên “ dung hợp cả Phật, Nho và Lão giáo. Vua có chí, dành nhiều thời giờ để tự học, đọc cả sách Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo.
Vua học Nho giáo để nghiên cứu về Chính trị học, Xã hội học rất cần thiết cho việc cai trị đất nước. vua tham học Lão giáo để tìm hướng siêu thoát cho tâm linh và tu học Phật để tìm đường giải thoát khỏi cảnh đau khổ vô thường của cuộc đời …
Trong bài “Tựa kinh Kim Cang Tam Muội “ vua kể lại phương pháp tự học như sau:
“Trẫm lo việc cai trị dân, nhiều lúc gặp khó khăn phải lăn xả vào công việc quên cả sớm tối. Công việc thì có hàng vạn thứ mà thì giờ nhàn rỗi không được bao nhiêu. Siêng năng trong công việc, tiếc ngày giờ chữ nghĩa chưa được bao nhiêu nên phải cố học thêm, ban đêm phải thức khuya để đọc thêm sách, học sách Nho giáo rồi học kinh điển Phật giáo…“.
vua Trần Thái Tông học cả ba tôn giáo Nho, Lão và Phật nhưng chịu ảnh hưởng Phật giáo nhiều nhất.Vua vừa nghiên cứu kinh điển Phật giáo vừa tổ chức các buổi tham luận về Phật học ở viện Tả Nhai, vừa tự tu học, siêng năng lễ lạy sám hối, tham học thiền và cuối cùng vua ngộ được đạo. Trong bài tựa Thiền tông chỉ nam, vua Thái Tông viết như sau:
“Nghe lời Quốc sư Trúc Lâm, trẫm trở lại kinh đô, miễn cưỡng mà lên ngôi vua. Trong suốt mười mấy năm trời, mỗi khi được nhàn rỗi việc nước, trẫm lại triệu tập các bực kỳ đức để tham vấn về thiền học. Các kinh điển của các tông phái lớn, không kinh nào không nghiên cứu“.
Trẫm thường đọc Kinh Kim Cang, một hôm đọc đến đoạn “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm“ (không nên trụ trước nơi nào mới sanh chân tâm), buông kinh xuống chiêm nghiệm, bỗng hoát nhiên tự ngộ. Bèn đem chỗ giác ngộ ấy viết thành những lời sau đây, đặt tên là “Thiền tông chỉ nam”.
Năm ấy vào khoảng năm 1248-1250, quốc sư Phù Vân từ núi Yên Tử về kinh sư, trẫm mời ở lại chùa Thắng Nghiêm chủ trì việc khắc bản in các kinh điển, trẫm đem sách này cho quốc sư xem. Quốc sư ba lần tán thán rằng : “Tâm chư Phật ở cả trong sách này, sao không đem khắc bản in để dạy kẻ hậu học?”. Trẫm nghe nói thế, liền sai thợ viết chữ chân phương, sắc truyền khắc ván đem in. Sách này không những để chỉ chỗ mê lầm cho đời sau, mà còn muốn nối tiếp công đức truyền bá của bực thánh nhân đời trước càng thêm rộng lớn…
Sau khi lên làm Thái thượng hoàng (1258), Thái Tông dành hầu hết thời gian cho việc tu hành. Sau khi quán xét lại cả cuộc đời của mình, Thái Tông nhận thấy rõ cuộc đời là vô thường là biển khổ, trong cảnh tranh quyền đoạt lợi nơi chốn cung đình hay trong triều nội, con người đã âm mưu, sát hại lẫn nhau, làm nhiều điều trái với đạo đức… Chính bản thân của Thái Tông phạm bao nhiêu tội lỗi, dù không phải do quyết định của chính mình, nhưng vì quyền lợi của gia đình mà Trần Thủ Độ đã tạo bao nhiêu tội ác. Đối với vua, Trần Thủ Độ có công trong việc củng cố quyền hành và tạo sự ổn định cho đất nước, nhưng ông đã làm biết bao điều tàn ác: ép buộc vua Lý Huệ Tông tự tử, giết tất cả Hoàng tộc, ép vua lấy chị dâu (vợ Trần Liễu) …
Thái tông thấy rõ chỉ có con đường tu hành theo Phật giáo mới có thể giải thoát khỏi cuộc đời vô thường, kiếp người đầy phiền não khổ lụy và mới giải thoát khỏi luân hồi nhân quả.
Vì vậy Thái Tông dành nhiều thời gian cho việc tu hành theo đạo Phật. Sau khi nghiên cứu kinh điển Phật giáo tham học với các bậc thạc đức danh tăng và tu tập thiền định, Thái Tông thấy rõ trước hết là cần phải lạy Phật sám hối tội lỗi của mình (trong kiếp này và các kiếp trước), sửa tâm tánh, làm các điều thiện (thập thiện, lục độ…) và phải tu tập thiền định rốt ráo mới hy vọng giải thoát luân hồi nhân quả.
Sau mười mấy năm sám hối, tham học kinh điển, tham vấn chư thạc đức và tu tập thiền định, Thái Tông ngộ được lý đạo. Thái Tông vừa tu hành, vừa biên soạn sách cho người tu.
Những lúc việc nước rỗi rảnh và nhất là khi lên làm Thượng hoàng, Trần Thái Tông về hành cung Vũ Lâm và điện Thái Vi ở khu rừng núi thuộc vùng cố đô Hoa Lư (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình), nơi đây Thái Tông vừa ẩn dật lễ sám, tu hành, vừa biên soạn sách Phật học, sách về Thiền tông, đặc biệt chú trọng đến việc tụng kinh lễ Phật sám hối.
Vào cuối mùa xuân năm Đinh Sửu (1277), Thượng hoàng Trần Thái Tông bị bệnh ở cung Vạn Thọ, vua Trần Thánh Tông đến thăm viếng, thưa rằng: “Chân không và Ngoan không là đồng hay khác?”. Thượng Hoàng bảo: “Chân không và ngoan không là một, chỉ vì tâm con người mê và ngộ nên mới có chân không và ngoan không. Ví dụ như gian nhà, mở cửa thì sáng, đóng cửa thì tối; sáng và tối chẳng đồng, nhưng gian nhà chỉ là một “.
Hôm sau, Quốc sư Đại Đăng vào thăm Thượng hoàng, hỏi rằng: “Thượng hoàng bệnh chăng?”. Thượng hoàng Thái Tông đáp: “Tứ đại là bệnh, nhưng thân này xưa nay vốn không can hệ đến sanh tử, vì thế làm sao vướng mắc vào bịnh hoạn được? “.
Mấy ngày sau đó, Thượng hoàng Thái Tông bỗng lặng thinh, không nói gì cả. Sau đó, đuổi hết những kẻ hầu hạ, đem việc đại sự quốc gia dặn dò riêng với vua Thánh Tông. Vua có ý muốn nhờ Quốc sư Trúc Lâm (thiền sư Phù Vân) và quốc sư Đại Đăng thuyết giảng về pháp xuất thế cho Thượng hoàng nghe; Thượng hoàng gằn giọng bảo rằng: “Trong giây phút hiện tiền này, chỉ bớt một mảy tơ cũng làm thịt bị đụt khoét thành vết thương; còn thêm một mảy tơ, cũng giống như bụi vướng trong mắt. Ba đời chư Phật “bốn mắt nhìn nhau“ (tứ mục tương cố), sáu đời Tổ sư kế truyền riêng; dù Phù Vân nói huyền, Đại Đăng thuyết diệu, đều là lời thừa, chẳng có ích gì với thân này“.
Nói xong, Thượng hoàng trần Thái Tông lặng lẽ thị tịch, nhằm vào ngày mùng một tháng tư năm Đinh Sửu (1277).
Thượng hoàng tu hành chí thành, đạt được đạo quả nên có thể biết ngày chết trước cả năm.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Năm Đinh Sửu, Bảo Phù năm thứ năm (1277), mùa hạ tháng tư ngày mùng 1, Thượng hoàng băng ở cung Vạn Thọ. Trước đó Thượng hoàng đến ngự đường bỗng thấy con rít bò trên áo ngự, Thượng hoàng sợ, lấy tay phủi nó rơi đánh “keng“ xuống đất, nhìn xem thì hóa ra là cái “đinh sắt “, đoán là điềm năm “Đinh “. Lại có lần đùa, sai Minh tự Nguyễn Mặc Lão dùng phép “nội quan“ nghiệm xem điều lành hay điều dữ. Hôm sau, Mặc Lão tâu: thấy một cái hòm vuông, bốn mặt đều có chữ “Nguyệt“, trên hòm có một cây kim và một cái lược, Thượng hoàng lại đoán “Hòm tức là quan tài, chữ nguyệt ở bốn bên tức là tháng tư, cây kim có thể cắm vào vật gì tức là nhập vào quan tài, cái lược là chữ “sở“ đồng âm với “sơ“ là xa, tức là xa các ngươi. Lại lúc ấy đang có trò múa rối thường có câu “Mau đến ngày mùng 1 thay phiên“, Thượng hoàng lại đoán: thế là ngày mùng một tháng tư là chết.
Năm trước, có một hôm, Thượng hoàng chợt bảo những kẻ theo hầu cận rằng: “Tháng tư sang năm ta tất chết : Đến nay quả như vậy“.
Ngày mùng 4 tháng 10, táng Thượng hoàng ở Chiêu lăng.
Tác Phẩm của Trần Thái Tông :
- Thiền tông chỉ nam (hiện chỉ còn bài tựa).
- Kim Cang Tam Muội kinh chú giải (chú giải kinh Kim Cang Tam Muội, hiện nay chỉ còn bài tựa).
- Lục thời sám hối khoa nghi.
- Bình đẳng lễ sám văn (chỉ còn bài tựa).
- Khóa hư lục.
- Trần Thái Tông ngự tập (các bài thơ văn của Trần Thái Tông, hiện chỉ còn vài bài).
- Quốc triều thông chế.
- Kiến trung thường lễ.
- Bài thơ “Ký Thanh Phong am Tăng Đức Sơn“.
- Bài thơ “Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh“.
…………………………………………………………….
2.Trần Thánh Tông (1258-1278)
Trần Thánh Tông tên húy là Hoảng, con của vua Trần Thái Tông và Hoàng hậu Hiển Từ Thuận Thiên (họ Lý). Khi vua Trần Thái Tông chiêm bao thấy Thượng đế trao cho gươm báu, hoàng hậu có mang. Trần Thánh Tông sinh vào giờ Ngọ, ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý (1240).
Năm 1258, Trần Thái Tông được vua cha nhường ngôi, trị vì từ năm 1258 đến năm 1278.
Vua Trần Thánh Tông là bậc hiền tài, nhân hậu, hết lòng chăm lo việc nước.
Năm 1262, Thượng hoàng Thái Tông về hành cung Tức Mặc, cho đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cho xây cung Trùng Quang cho Thượng hoàng ngự, và cung Trùng Hoa cho vua về chầu; lại làm chùa Phổ Minh ở phía tây cung Trùng Quang.
Vua Thánh Tông khuyến khích mở trường học và mở khoa thi để kén chọn hiền tài. Vua phong cho em là Trần Ích Tắc làm Chiêu Quốc vương. Ích Tắc thông minh, giỏi văn học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, đánh cờ, đá cầu …; từng mở học đường ở bên phủ đệ, đào tạo nhiều văn học hiền tài như Mạc Đỉnh Chi, Bùi Phóng, Lê Văn Hưu (soạn sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, 30 quyển), …
Vua thường đến chùa Tư Phúc (Đại Nội) tham học Thiền với Quốc sư Đại Đăng, có hiệu là Vô Nhị Thương Nhân.
Năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông băng.
Ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần (1278), vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Khâm (Trần Nhân Tông).
Năm 1282, có cá sấu đến sông Lô, vua sai Thượng thơ Bộ Hình Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu tự đi mất. Việc nầy giống như việc của Hàn Dũ bên Trung Hoa, nên vua Nhân Tông ban gọi là Hàn Thuyên. Hàn Thuyên giỏi về thơ phú quốc ngữ, giúp cho thơ phú Quốc ngữ phát triển.
Nghe tin vua Nguyên lấy cớ là mượn đường đi đánh Chiêm Thành để sang xâm lược nước ta, vua Nhân Tông cho mời vương hầu và trăm quan về dự hội ở Bình Than (Chí Linh, Hải Dương) bàn kế hoạch chống quân Nguyên. Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản còn nhỏ tuổi không được dự, bóp nát trái cam, về dinh tập họp hơn một ngàn gia nô và thân thuộc trang bị vũ khí, đóng chiến thuyền, làm cờ thêu sáu chữ “Phá cường địch, báo Hoàng ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua). Vua và các Vương hầu luyện tập tướng sĩ.
Tháng Chạp năm Giáp Thân (1284), Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu tập các bô lão trong nước về dự Hội nghị Diên Hồng, tất cả đều “quyết chiến”!
Ngày 21 tháng 12 năm Giáp Thân (27-01-1285), Thái tử Nhà Nguyên là Trấn Nam vương Thoát Hoan đem 50 vạn quân xâm lăng nước ta (Quân Nguyên xâm lăng lần thú hai).
Ngày 06 tháng 6 năm Ất Dậu (09-7-1285), Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông tướng sĩ tiến về kinh đô Thăng Long.
Ngày 20 tháng 11 năm Đinh Hợi (05-12-1287), Thoát Hoan lại đem quân xâm lăng nước ta. Sau khi đánh bại quân Nguyên, ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý (18-4-1288), Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về phủ Long Hưng, đến Chiêu Lăng (Lăng vua Trần Thái Tông) làm lễ dâng thắng trận, dẫn theo các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, Ô Mã Nhi …. Trước đó quân Nguyên đã khai quật Chiêu Lăng nhưng không phạm tới quan tài. Đến khi giặc thua, chân ngựa đá ở lăng đều bị lấm bùn. Đó là Thần linh giúp vậy.
Ngày 27 tháng 3 năm Mậu Tý (28-4-1288), Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông cùng tướng sĩ tiến về kinh đô Thăng Long. Vua ban lệnh đại xá cho thiên hạ, miễn giảm tô thuế.
THIỀN SƯ TRẦN THÁNH TÔNG hay VÔ NHỊ THƯỢNG NHÂN.
Trần Thánh Tông khi còn ở ngôi vua vẫn thường đến chùa Tư Phúc (Đại Nội) tham học Thiền với Quốc sư Đại Đăng, có hiệu là Vô Nhị Thượng Nhân.
Vua thường tham học Thiền và cũng thường mời chư Thiền đức đến cung để tham cứu Phật pháp và Thiền học.
Một hôm, khi đọc sách Đại Huệ Ngữ lục, vua cảm xúc đặt hai bài kệ :
Đả ngõa toản quy tam thập niên Đập ngói dùi rùa ba chục năm
Kỷ hồi hãn xuật vị tham thiền Mồ hôi ướt đẫm bởi tham thiền
Nhất triêu thức phá nương sinh diện Một mai thấu rõ gương mặt thật
Tỷ khổng nguyên lai một bán biên. Lỗ mũi xưa nay mất một bên.
Nhãn tiền vô sắc nhĩ vô thanh Trước mắt không hình, tai không tiếng
Nhất phiến tâm đầu tự đả thanh Một mãnh tâm kia tự đúc thành
Thanh sắc bất can thần thiệt ngoại Thanh sắc chẳng can, ngoài miệng lưỡi
Nhậm tha “bác báo” dữ “đô đinh” Mặc cho “bác báo” hay “đô đinh”.
Sau khi đọc sách Phật sự Đại Minh Lục, Trần Thánh Tông có bài kệ :
Tứ thập dư niên nhất phiến thành Bốn mươi năm lẽ một phiến thành
Lao quan khiêu xuất vạn trùng quynh Vượt khỏi hằng vạn cửa ngục tù
Động như không cốc phong xao hưởng Động như gió vang trong hang trống
Tĩnh nhược hàn đàm nguyệt mãn minh Tĩnh như trăng chiếu nơi đầm lạnh
Cù lý ngũ huyền thân thấu đắc Tự thân hiểu được lý “ngũ huyền”
Lộ đầu thập tự nhậm tung hoành Mặc sức tung hoành đường thập tự
Hữu nhân vấn ngã hà tiêu tức ? Có kẻ hỏi ta hà tiêu tức ?
Vân tại thanh thiên thủy tại bình. Mây trên trời xanh nước trong bình.
Trần Thánh Tông còn có 5 bài thơ “Tự thuật”:
1.Tự tòng quán giác nhập thiền lưu Từ khi bé nhỏ đã vào thiền
Đả ngõa toản qui một ngoại cầu Xoi rùa đập ngói không cầu khác
Nhận đắc bổn lai chân diện mục Nhận được xưa nay mặt thật nầy
Đáo đầu hà xứ bất hưu hưu. Thì đến nơi nào chẳng ung dung
2.Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm Chiếc đàn không điệu khảy suốt ngày
Nhàn môn vô sự khả quan tâm Cửa vắng không việc đáng quan tâm
Cá trung khúc phá vô nhân hội Khúc nhạc trong kia không ai biết
Duy hữu tùng phong họa thử âm. Hòa âm chỉ có gió thông ngàn.
3.Tung hoành bất đọa hữu vô ky Dọc ngang không vướng cơ vô hữu
Vạn pháp phân phân tổng bất tri Vạn pháp lung tung đều không biết
Khiết phạn đả miên tùy xứ dụng Ăn cơm đi ngủ đều tùy ý
Cánh vô tha sự khả ưng vi. Ngoài ra nào có việc gì đâu.
4.Nhất đàn chỉ phá vạn trùng san Một cái búng tay phá vạn núi
Giá cá công phu dã thị nhàn Công phu như thế cũng là nhàn
Hàn thử đáo lai vô sở thức Lạnh nóng đến đây không chỗ biết
Vị tằng phần thượng lão nhân can. Chưa từng can dự đến lão nầy.
5.Cá trung vô khiếm diệc vô dư Trong kia không thiếu cũng không dư
Phật dã vô hề nhân dã vô Phật cũng không mà người cũng không
Thu cảnh viễn lai thiên ngoại viễn Cảnh thu xa tít ngoài trời xa
Thanh sơn vân tỏa chủy đô lô. Mây phủ non xanh một sắc đồng.
Trần Thánh Tông còn có bài kệ :
Chơn tâm chi dụng Dụng của chơn tâm
Tỉnh tỉnh tịch tịch Tỉnh tỉnh lặng lặng
Vô khứ vô lai Không đi không đến
Vô tổn vô ích Không thêm không bớt
Nhập đại nhập tiểu Vào to vào nhỏ
Nhậm thuận nhậm nghịch Mặc thuận mặc nghịch
Động như vân hạc Động như mây, hạc
Tĩnh như tường bích Tĩnh như tường vách
Kỳ khinh như mao Nhẹ như sợi lông
Kỳ trọng như thạch Nặng như hòn đá
Sái sái nhi tịnh Trong sạch làu làu
Lõa lõa nhi xích Hiển bày lồ lộ
Bất khả độ lượng Chẳng thể đo lường
Toàn vô tung tích Tuyệt vô tông tích
Kim nhật nhị quân Nay ta vì anh
Phân minh phẩu phách. Tỏ bày rành mạch.
Vua Trần Thánh Tông bệnh, Thượng sĩ Tuệ Trung gởi thơ thăm, vua viết vào cuối trang đáp lại :
Hơi nóng hừng hực mồ hôi đẫm Viêm viêm thử khí hãn thông thân
Chiếc khố mẹ sanh vẫn ráo khô. Hà tằng hoán đắc nương sanh khố.
Đến lúc bệnh nặng, vua gõ ngón tay vào gối, như có điều sở đắc, giây lát sau, vua đòi bút viết bài kệ :
Sanh như mặc áo, Sanh như trước sam,
Chết như cởi trần Tử như thoát khố,
Từ xưa đến nay, Tự cổ cập kim,
Không đường nào khác. Cảnh vô dị lộ.
Chiều ngày 22 tháng 5 năm Canh Dần (1250), sấm gió nổi dậy, một vầng ánh sáng tròn chiếu nơi vách, Thượng hoàng Trần Thánh Tông băng, thọ 51 tuổi.
Thượng hoàng Trần Thánh Tông có biên soạn các tác phẩm : Thiền tông liễu ngộ ca, Phóng ngưu, Cơ cừu lục, Chỉ giá minh, Văn tập, Di hậu lục …
3.Trần Nhân Tông (1279-1293)
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
4.Trần Anh Tông (1293-1314)
Vua Trần Anh Tông tên húy là Thuyên, con của Thượng hoàng Trần Nhân Tông và Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Thái hậu, lên ngôi năm 1293.
Năm 1295, nhân Sứ giả Nhà Nguyên là Tiêu Thái Đăng sang, vua sai Nội viên Ngoại lang Trần Khắc Dụng , Phạm Thảo cùng đi theo, nhận được Bộ Đại Tạng kinh đem về, để ở Phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu hành.
Năm 1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử xuất gia tu hành với hiệu Trúc Lâm Đầu đà. Trúc Lâm di chúc cho vua Anh Tông phải hộ pháp cho Tôn giả Pháp Loa. Vua Anh Tông cho in các sách Phật giáo pháp sự, Đạo trường Tân văn và Công văn cách thức ban hành cả nước.
Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300), Đại vương Trần Hưng Đạo mất ở phủ đệ Vạn Kiếp.
Năm 1301, Thượng hoàng Nhân Tông vân du về phương Nam, sang Chiêm Thành trong mấy tháng, hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân.
Năm 1302, một Đạo sĩ Trung Hoa là Hứa Tông Đạo theo thuyền buôn sang, ngụ ở bến sông Yên Hoa (Yên Phụ, Hà Nội), truyền bá Phép phù thủy, Đàn chay, sau đó được thịnh hành ở nước ta.
Năm 1303, Thượng hoàng Trần Nhân Tông mở hội Vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh tại phủ Thiên Trường, giảng kinh, và bố thí vàng bạc tiền lụa cho dân nghèo trong nước.
Năm 1304, sư Du già nước Chiêm Thành sang nước ta, chỉ uống sữa bò.
Năm 1306, Thượng hoàng gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân.
Đêm mồng Một tháng tháng 11 năm Mậu Thân (1308), Trúc Lâm Đầu đà viên tịch tại am Ngọa Vân trên ngọn Tử Tiêu, núi Yên Tử. Hỏa thiêu Tổ sư Trúc Lâm được hơn ba ngàn hạt xá lợi, mang về chùa Tư Phúc, mất một số hạt xá lợi, vua Anh Tông và các quan trong triều định bắt tội Tôn giả Pháp Loa, nhưng lúc đó, Hoàng tử Trần Mạnh (9 tuổi) đứng hầu bên cạnh, chợt thấy có mấy hạt xá lợi bay vào tay áo đưa ra cho mọi người xem, lúc đó mới hết nghi.
Xá lợi được đưa vào thờ trong bảo tháp tại am Ngọa Vân trên núi Yên Tử, Thiền sư Trí Thông theo phụng hầu. Trước đây, khi Nhân Tông xuất gia, sư chùa Siêu Loại là Trí Thông tự đốt cánh tay mình, từ bàn tay đến khuỷu tay, vẫn ung dung không biến sắc. Nhân Tông vào xem, Trí Thông đặt chỗ cho vua ngồi, lạy và nói : “Thần tăng đốt đèn đó!”. Đốt đèn xong, về viện ngủ kỹ, ngủ dậy, chỗ bỏng lửa phồng lên khỏi hết. Đến đây, Nhân Tông băng, Trí Thông liền vào núi Yên Tử ở hầu bảo tháp thờ xá lợi. Đến đời Minh Tông, ông tự thiêu mà chết. (Đại Việt Sử ký Toàn thư, năm 1310)
Năm 1309, vua Anh Tông xuống chiếu mời Quốc sư Liễu Minh giảng kinh Pháp Hoa và kinh Lăng Già Thông nghị ở chùa Tư Phúc trong Đại Nội.
Cuối năm 1310, vua Anh Tông đem quân đánh Chiêm Thành vì vua Chế Chí phản trắc, bắt được Chế Chí. Vua cho lập Đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải (Cửa Cờn, Hà Tĩnh) vì khi đem quân đánh Chiêm Thành, dừng quân ở đây, đêm đến vua mơ thấy một Thần nữ khóc với vua nói : “Thiếp là cung phi Nhà Triệu Tống bị giặc bức bách, gặp phải sóng gió, trôi giạt đến đây. Thượng đế phong Thiếp làm Thần biển đã lâu. Nay Bệ hạ đem quân đi, Thiếp xin giúp đỡ lập công”. Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lão đến hỏi sự thực, cho tế, rồi lên đường. Biển vì thế không nổi sóng. Quân vua tiến thẳng đến thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm đem về. Đến đây, vua sai Hữu ty lập Đền bốn mùa cúng tế. (ĐVSKTT)
Năm 1312, vua Anh Tông xuống chiếu mời Tôn giả Pháp Loa (Phổ Tuệ) vào chùa Tư Phúc giảng Đại Huệ Ngữ lục. Và tham học về ý chỉ Thiền. Giảng xong, vua xuất vàng bạc trong kho riêng giao cho Tôn giả phát cho những người nghèo khó.
Năm 1314, vua Anh Tông nhường ngôi cho Thái tử Mạnh, tức vua Trần Minh Tông.
Năm Mậu Ngọ (1318), Thượng hoàng Trần Anh Tông có ý muốn xuất gia, nên sai cung nhân ăn chay. Các cung nhân đều ngần ngại, duy có Nữ quan Nguyễn Thị Diên chặt ngón tay đem dâng. Thượng hoàng ngợi khen, ban cho 40 mẫu ruộng làm lương ăn tu hành. Quả nhiên xuất gia tu hành cho đến lúc mất, pháp danh là Tịnh Quang.
Tháng 8 năm đó, Thượng hoàng mời Tôn giả Pháp Loa đến am Thường Lạc tại phủ Thiên Trường giảng Truyền Đăng lục; tháng 12, giảng Tuyết Đậu Ngữ lục.
Năm 1319, các Lộ (tỉnh) đói kém, Thượng hoàng xuất vàng bạc trong kho riêng giao cho Tôn giả Pháp Loa ban cho những người nghèo đói.
Thượng hoàng Trần Anh Tông viết thư trình kiến giải với Tôn giả Pháp Loa như sau : “Đệ tử nghe tôn thể không khỏe, kính sai Trung sứ đến hỏi thăm tin tức. Nhân đó được thư Thầy đáp lại, hỏi đến chỗ thấy thế nào? Tạm mượn bút để tỏ bày, kính trình lên Thầy hầu mở rộng tâm nghe đạo, xem có thật đúng chăng? Lấy đó làm chỗ hướng về, khiến cho trăm năm về sau nghĩ nhớ các lẽ nầy, hằng làm của báu cho thân.”Tụng :
Chủng chủng hư ngụy Mọi vật hư ảo
Vô pháp khả đắc Không pháp thật được
Bệnh nhãn không hoa Mắt bệnh sanh hoa
Vọng phân nam bắc Vọng chia nam bắc
Dã bất tạo tác Cũng không làm ác
Dã bất tu thiện Cũng chẳng tu hiền
Thùy lai đả miên Buồn ngủ thì ngủ
Cơ lai khiết phạn Đói thì ăn cơm
Tùng tha nhiễu nhiễu Mặc kẻ rối rít
Nhậm nhĩ phân phân Mặc người lăng xăng
Nguyên lai y tiền Vốn xưa như thế
Thái vũ chủ nhân. Chủ nhân vũ trụ.
Tôn giả Pháp Loa thầm hứa nhận. Thượng hoàng lại gởi bài thơ :
Huyễn khu tuy kiên bất túc ưu, Thân huyễn tuy vững cũng chẳng lo
Khách vân tụ tán thủy phù bào Mây họp rồi tan như bọt nổi
Ức lai Phật pháp nguy như lũ Nhớ xưa Phật pháp mãnh như tơ
Độc đối hàn đăng ám lệ lưu Một bóng đèn khuya lệ thầm rơi.
Năm 1320, Thượng hoàng bệnh, mời Tôn giả Pháp Loa đến gặp và hỏi : Bồ tát trở lại trần thế làm những hạnh gì để độ cho chúng sanh giải thoát?
Pháp Loa đáp : Người xưa khi được chánh kiến rồi, hằng ngày huân tập, coi sanh tử như trò chơi, đến đi chẳng ngại, thân tùy theo ý sanh, tùy chỗ tạm mượn. Kinh Viên giác nói : “Bồ tát trở lại trần lao không phải do gốc ái dục”……………….
Ngày 16 tháng 3 năm Canh Thân (1320), Thượng hoàng Trần Anh Tông băng. Trước khi chết, Thượng hoàng cho thiêu hủy tất cả sách đã biên soạn, kể cả Tập thơ “Thủy vân tùy bút”.
5.Trần Minh Tông (1314-1329)
Vua Trần Minh Tông tên húy là Mạnh, con của Thượng hoàng Trần Anh Tông, mẹ đích là Thái hậu Thuận Thánh Bảo Từ (con của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng), mẹ đẻ là Thái hậu Chiêu Hiến (con của Bảo Nghĩa Đại vương Trần Bình Trọng).
Năm 1321, Thi các Tăng sĩ, hỏi kinh Kim Cang.
Năm 1322, vua xuống chiếu thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ (Pháp Loa) soạn quyển “Tham thiền yếu chỉ”, vua viết :”…… Đệ tử còn dính việc trần tục, tìm hiểu trong sách Nho thì cạn hẹp. Nhờ bàn luận với Thầy mới hiểu được ý nghĩa thâm sâu của Thiền. Do đó, tâm rất mến mộ, bèn đọc các Ngữ lục của người xưa, dù tâm có ngộ nhưng chưa được hiểu tường tận.Ý muốn thỉnh Thầy đăng tòa giảng thuyết, nhưng bận muôn việc. Mong Thầy biên soạn lại thành sách “Tham thiền yếu chỉ” để tiện việc xem đọc thì nguyện đứng trong tuyết của đệ tử đã xong vậy. Rất mong! Rất mong! Xin có ít lời thô thiển :
Cả đời từng chứa một cây đàn Bình sanh tằng súc nhất trương cầm
Năm tháng mai một bởi bụi trần Mai một trần ai tuế nguyệt thâm
May gặp Bá Nha tay cao thủ Hạnh ngộ Bá Nha cao diệu thủ
Âm thanh vi diệu hòa núi sông. Cảnh giao sơn thủy tự huy âm.
Tôn giả Phổ Tuệ biên soạn xong, dâng lên vua. Vua xem qua khen ngợi, ban thêm hai chữ “Minh Giác” vào pháp danh “Phổ Tuệ”, vua viết :”Sư phong thái siêu thoát, chí khí hiên ngang, không thể dùng tâm phàm mà hiểu được phong thái của Ngài. Nay xem tập “Tham thiền yếu chỉ” do Sư dâng lên, thật là theo phép tắc, bước đi theo qui củ, kế sách vị tướng giởi đâu được như thế! Tông phong của dòng Trúc Lâm chính nhờ thế mà chẳng suy hoại, đáng ban khen thêm hai chữ “Minh Giác” …”
Năm 1325, vua Minh Tông thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ đến chùa Tư Phúc giảng Tuyết Đậu Ngữ lục, đến tháng chín giảng tiếp kinh Viên Giác.
Năm 1326, vua thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ thọ phép quán đãnh.
Năm 1328, vua thỉnh Quốc sư Pháp Cổ ở núi Cảo (?) giảng Niệm tụng kinh Kim Cang của ngài Xuyên Lão.
Ngạy tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1329), vua Minh Tông nhường ngôi cho Thái tử Vương, tức vua Trần Hiến Tông.
6.Trần Hiến Tông (1329-1341)
Thượng hoàng Minh Tông về hành cung ở Thiên Trường.
Năm 1330, Tôn giả Phổ Tuệ bệnh, Thượng hoàng đích thân đến thăm. Sau khi Tôn giả tịch, Thượng hoàng ban mười lượng vàng xây tháp và tự tay ban thêm hiệu “Tịnh Trí Tôn giả”, tháp hiệu Viên Thông, đồng thời làm thơ tỏ lòng tiếc nhớ.
Sau đó, Thượng hoàng Minh Tông lại sai Trung sứ đến Tôn giả Huyền Quang nhờ tìm Ngữ lục và Hành trạng của Tôn giả Phổ Tuệ biên chép lại. Tôn giả Huyền Quang vâng chiếu biên chép lại, vua sai khắc bản lưu hành trong Đại nội, tự viết Lời Tưa và các bài Tán, Tựa, Bạt của 67 triều thần.
Tháng 6 năm Canh Ngọ (1330), Thượng hoàng Minh Tông mời Tôn giả Huyền Quang đến chùa Tư Phúc trong Đại nội giảng Đại Huệ Ngữ lục, càng làm sáng tỏ thêm yếu chỉ thiền. Sau khi giảng xong, Thượng hoàng viết bài Tụng …
Thượng hoàng giúp vàng bạc, tiền của và nhân công cho Tôn giả Huyền Quang xây dựng chùa Đại Tư Quốc tự ở Côn Sơn.
Năm 1341, vua Trần Hiến Tông băng (1329-1341), Thượng hoàng Minh Tông lập Thái tử Hạo lên ngôi, tức Trần Dụ Tông.
Năm 1355-1356, Thượng hoàng mời Thiền sư Cảnh Huy giảng tập “Nhân Thiên nhãn mục” và mời Thiền sư Kim Sơn chứng minh. Thượng hoàng lại mời Thiền sư Kim Sơn giảng Bích Nham Lục, nghiên cứu đại ý về Tụng Cổ của Thiền sư Tuyết Đậu …
Năm 1356, Thái hậu Hiến Từ lập Đàn chay ở chùa Chiêu Thánh, phát tiền bố thí cho dân nghèo để cầu đảo cho Thượng hoàng.
Ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu (1357), Thượng hoàng Trần Minh Tông băng.
7.Trần Dụ Tông (1341-1369)
…………………………………………………………………….
8.Trần Nghệ Tông (1370-1372)
…………………………………………………………………….
9.Trần Duệ Tông (1373-1377)
……………………………………………………………………
10.Trần Phế Đế (1377-1388)
…………………………………………………………………….
11.Trần Thuận Tông (1388-1398)
………………………………………………………………………
12.Trần Thiếu Đế (1398-1400).
………………………………………………………………………
- Dấu Ấn Chùa Thiền Lâm- Di Tích Văn Hoá Tâm Linh Đặc Biệt Nguyễn Đắc Xuân.
- Đại Thừa Đăng với những Cao Tăng Việt-Hoa Tâm Phương
- Vài nét về Phật giáo Lý – Trần Thuần Hiếu
- Nghiên cứu tình trạng Phật Giáo Việt Nam trong giai đoạn chống xâm lăng Lê Mạnh Thát
- Lược sử Trúc Lâm Tam tổ Thích Nguyên Như
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 7: Tổng lược lịch sử Phật giáo vào thời nhà Lý (1009 - 1225) Nguyễn Hiền Đức
- Sơ lược lịch sử Phật giáo Việt Nam - Chương 6: Lịch sử Phật giáo vào thời nhà Ngô, nhà Đinh và nhà Tiền Lê (939 - 1009) Nguyễn Hiền Đức
- Tưởng niệm ngày Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp vong thân: Tranh đấu bất bạo động Lý Nguyên Diệu
- Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo thời Lý ThS. Trần Thị Hạnh
- Ảnh hưởng của Phật giáo đến lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập ThS. Hà Đan
- Vạn Hạnh - Lí Công Uẩn: Nhìn từ cấu trúc quyền lực cặp đôi Trịnh Văn Định
- Lược sử Phật giáo Tuyên Quang PGS.TS Trần Mạnh Tiến
- Vai trò của Phật giáo và những nhà sư xuất sắc trong đời sống chính trị của xã hội Đại Việt thời đầu kỷ nguyên độc lập TS. Sử học Polyakov Alexey
- Thiền sư Khuông Việt với hai triều Đinh, tiền Lê Th.S Đinh Văn Viễn
- Ảnh hưởng từ cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức trong phong trào tranh đấu của Phật giáo Việt Nam năm 1963 Thích Pháp Như
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 2: Hòa thượng Chuyết Công với phái thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài - 3. Chùa Phật Tích
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 2: Hòa thượng Chuyết Công với phái thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài - 2. Thiền sư Minh Hành - Tại Tại (1596 - 1659)
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 2: Hòa thượng Chuyết Công với phái thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài - 1. Thiền sư Viên Văn - Chuyết Chuyết (1590 1644)
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 1: Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử - D. Dấu chân hoằng hóa của các thiền sư thuộc phái thiền Trúc Lâm ở Bắc Hà (1593-1630) - Phần 2
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 1: Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử - D. Dấu chân hoằng hóa của các thiền sư thuộc phái thiền Trúc Lâm ở Bắc Hà (1593-1630) - Phần 1
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 1: Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử - C. Hành trạng tam tổ Trúc Lâm - 3. Hành trạng Tôn giả Huyền Quang (1254 - 1334)
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 1: Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử - C. Hành trạng tam tổ Trúc Lâm - 1. Hành trạng Tôn giả Pháp Loa (1284 - 1330)
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 1: Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử - C. Hành trạng tam tổ Trúc Lâm - 1. Hành trạng sơ tổ Trúc Lâm
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 1: Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử - B. Các Thiền Sư thuộc truyền thống núi Yên Tử - Phần 2
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 1: Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử - B. Các Thiền Sư thuộc truyền thống núi Yên Tử
Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)