Hòa thượng Thiền sư U Silananda

Đã đọc: 8884           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image Hòa thượng Thiền sư U Silananda

Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda sinh tại Mandalay, Miến Điện (ngày nay là Myanmar) vào ngày thứ Sáu, 16 tháng 12 năm 1927, tức ngày thứ Tám sau ngày trăng tròn (the 8th Waning) của tháng Chạp (Nadaw), năm 1289 theo Âm lịch Miến Điện. Song thân của Ngài là Ông Wunna Kyaw Htin Saya Saing và Bà Daw Mone.

Half Moon Bay, CA (USA) – Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda đã an nhiên viên tịch vào ngày 13 tháng 8 năm 2005, lúc 7:24 sáng vì bệnh bướu não. Ngài hưởng thọ 78 tuổi (1927 – 2005).

Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda, một vị Tỳ kheo Miến Điện, là vị Cố Vấn Tinh Thần của Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Hoa Kỳ (Theravada Buddhist Society of America), có một trung tâm lớn ở Half Moon Bay, tiểu bang California. Ngài cũng là vị Lãnh Đạo Tinh Thần của các trung tâm thiền định ở Berkeley và San Jose tại California, và tại Florida. Ngài hoằng pháp bằng song ngữ Anh và Miến.

Tiểu sử của Ngài Sayadaw U Silanandabhivamsa

Thân thế

Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda sinh tại Mandalay, Miến Điện (ngày nay là Myanmar) vào ngày thứ Sáu, 16 tháng 12 năm 1927, tức ngày thứ Tám sau ngày trăng tròn (the 8th Waning) của tháng Chạp (Nadaw), năm 1289 theo Âm lịch Miến Điện. Song thân của Ngài là Ông Wunna Kyaw Htin Saya Saing và Bà Daw Mone.

Ông Saya Saing là một kiến trúc sư Miến Điện nổi danh và có uy tín qua các công trình xây dựng cơ sở tôn giáo trên toàn quốc. Ông là một thiện nam rất mộ đạo và cũng là một hành giả. Ông đã được lãnh giải thưởng với danh hiệu "Wunna Kyaw Htin" do Chính Phủ Miến Điện trao tặng cho các thành tích trong công trình kiến trúc tại Miến Điện và các hoạt động tôn giáo nổi danh của ông.

Hai anh của Ngài Hòa thượng Thiền sư cũng là hai nhà kiến trúc Miến Điện lỗi lạc. Hai cháu trai của Ngài tốt nghiệp ngành kiến trúc ở RIT (Rochester Institute of Technology, New York). Anh của Ngài là Ông U Ngwe Hlaing là thiết kế trưởng và cháu trai là Ông U Than Tun là người phụ thiết kế chiếc du thuyền "Karaweit" trong tỉnh Kandawgyi (Royal Lake) tại Rangoon.

Ngài Hòa thượng Thiền sư cũng xuất thân từ một gia đình Phật Giáo rất sùng đạo. Chị của Ngài là Ni Sư Daw Thandasari, một vị Ni Trưởng ở "Shwe-se-di Sar-thin-daik" của "Sasanapala Choung" tại Sagaing Hills.

Thọ giới Sadi

Vào năm 16 tuổi, ngày 14 tháng 4 năm 1943 tức ngày thứ Mười sau ngày trăng tròn (the 10th Waxing) của tháng Giêng (Tagu), năm 1305 theo Âm lịch Miến điện, cũng là ngày thứ ba của Lễ Rải Nước, suốt thời kỳ Nhật chiếm đóng, Ngài U Silananda thọ giới Sa di tại tu viện Mahavijjodaya Chaung ở Sagaing Hills dưới sự hướng dẫn của Ngài Hòa thượng U Pannavata, là một vị Pháp sư rất danh tiếng và được mọi người yêu mến. Từ đó Ngài U Silananda được pháp danh là "Shin Silananda".

Đời sống xuất gia

Với sự tán thành của song thân, vào thứ Tư ngày 2 tháng 7, năm 1947, tức là ngày trăng tròn của tháng Tư (Waso), năm 1309 theo Âm lịch Miến điện, Ngài U Silananda đã chính thức trở thành một vị sa môn tại cùng tu viện với cùng thầy U Pannavata. Bốn ngày sau, lễ thọ đại giới của Ngài lại được tổ chức trong vinh dự tại tu viện Payagyi Taik ở Mandalay dưới sự chủ lễ của Ông U Ba Than và bà dì Daw Tin, là người buôn bán các sản phẩm Phật giáo. Một lần nữa, năm 1950 (năm 1311 theo Âm lịch Miến Điện), lễ thọ đại giới lần thứ nhì của Ngài lại được tổ chức trong vinh dự tại Kyaungdawya Shwegyin tại Taik, Rangoon (Yangon) do thương gia buôn gạo Ông U Ba Thein và Bà Daw Ngwe Saw làm chủ lễ.

Học vấn

Nền học vấn của Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda được khởi đầu tại Trường Trung Học Kelly, một trường Cơ Đốc Giáo Hoa Kỳ cho nam học sinh tại Mandalay. Ngài đã hấp thụ Phật Pháp trong Tam Tạng Kinh Điển (Tipitaka) dưới sự chỉ đạo của vị thầy hướng dẫn và nhiều vị Hòa thượng danh tiếng khác ở cả hai nơi là Sagaing Hills và Mandalay.

Ngài đã tham dự các cuộc khảo hạch Phật Pháp được tổ chức do Chính Phủ Miến Điện (Myanmar) và đã trúng tuyển kỳ thi Phatamange (Kỳ khảo hạch thứ nhất) vào năm 1946, kỳ thi Phatamalat (Kỳ khảo hạch thứ nhì) vào năm 1947, và kỳ thi Phatamagyi (Kỳ khảo hạch thứ ba) vào năm 1948. Ngài đứng hạng nhất trong Kỳ khảo hạch thứ nhì khắp toàn quốc Miến Điện và đứng hạng thứ nhì trong Kỳ khảo hạch thứ ba. Ngài đã nhận được văn bằng Dhammacariya, Master of Dhamma, vào năm 1950 và Ngài được tặng thưởng danh hiệu Sasanadhaja Siripavara Dhammacariya. Vào năm 1954 Ngài nhận được văn bằng khác khi Ngài trúng tuyển kỳ thi được tổ chức bởi Hội Pariyattisasanahita tại Mandalay, được nổi tiếng là kỳ thi khó nhất ở Miến Điện. Ngài nhận song bằng để đạt được danh hiệu “abhivamsa”, do đó danh hiệu tròn đủ của Ngài là "Hòa thượng U Silanandabhivamsa, Sasanadhaja Siripavara Dhammacariya và Pariyattisasanahita Dhammacariya."

Ngài đã đến Ceylon (Tích Lan) vào năm 1954 và tại đó Ngài trúng tuyển kỳ thi Khảo Hạch Thâm Cứu GCE (General Certificate of Education Advanced Level Examination) được tổ chức tại Đại Học Luân Đôn ở Ceylon với ưu hạng trong cổ ngữ Pali và Sanskrit.

Trong khi Ngài ngụ tại Ceylon (Tích Lan), Ngài đã trở về thăm Miến Điện một thời gian ngắn và trong chuyến du hành này, Ngài đã thực hành thiền Minh Sát (Vipassana) theo truyền thống của Ngài Đại Lão Hòa thượng Thiền sư Mahasi Sayadaw.

Danh Vị

Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda là vị giảng sư tại Đại học Atithokdayone Pali ở Sagaing Hills, Tam Tạng Kinh Điển, Pali, Sanskrit và các ngôn ngữ Prakit tại tu viện Abhayarama Shwegu Taik, Mandalay và là Ngoại Giám khảo tại Khoa Đông Phương Học (Department of Oriental Studies), Đại Học Nghệ Thuật và Khoa Học ở Mandalay cho các bậc Cử nhân và Thạc sĩ.

Hòa thượng Thiền sư U Silananda là vị Trưởng ban Biên soạn bộ Tự Điển Tam Tạng Pali – Miến Điện (Tipitaka Pali - Burmese Dictionary) và là một vị trong Ban Hiệu Đính Kinh Tạng Pali và phụ khảo những bộ Chú Giải trong kỳ Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Sáu (Sixth Buddhist Council) được tổ chức tại Kaba Aye Hlaing Gu (World Peace Cave) ở Rangoon (Yangon) từ năm 1954 đến 1956. Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silanananda đã có cơ hội vàng ngọc để phụ với Ngài Đại Lão Hòa thượng Thiền sư Mahasi Sayadaw và Ngài Đại Lão Hòa thượng Mingun Tipitaka Sayadaw.

Năm 1960, Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda thừa kế tu viện Mahavijjodaya Chaung sau khi thầy của Ngài qua đời và Ngài trở thành vị Trụ trì tu viện. Năm 1968, Ngài chuyển qua tu viện Abhyarama Shwegu Taik ở Mandalay, và năm 1969 Ngài được chỉ định làm Phó Trụ trì tu viện này. Về sau, Ngài trở thành Trưởng Trụ Trì của tu viện này.

Năm 1993, Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda được bổ nhiệm là một thành viên của Ban Cố Vấn các Thiền sư của Thiền Đường Mahasi Sasana Yeiktha tại Yangon.
Ngài được thỉnh cầu làm Viện Trưởng Trường Đại Học Truyền Bá Phật Giáo Nguyên Thủy Quốc Tế của Yangon tại Myanmar (khai giảng vào tháng 12 năm 1999).

Viếng thăm nước ngoài

Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda đã viếng thăm nhiều quốc gia thuộc cả hai Á Châu và Âu Châu, và Ngài là một thành viên của hội viếng thăm Mỹ Quốc vào năm 1959 dưới sự thỉnh cầu của Chính Phủ Hoa Kỳ.

Vào tháng Tư năm 1979, Ngài Đại Lão Hòa thượng Thiền sư Mahasi Sayadaw và đoàn tháp tùng của Ngài (gồm có Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda) đã viếng thăm Tiểu Bang San Francisco, California, USA với toàn bộ chương trình hoằng pháp, các dâng cúng cao thượng, các buổi thuyết pháp và các khóa thiền. Trong giai đoạn cuối của cuộc viếng thăm, Ngài Đại Lão Hòa thượng Thiền sư Mahasi Sayadaw đã chấp thuận để Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda và Ngài Hòa thượng Thiền sư U Kelasa ở lại hoằng pháp tại Tiểu Bang San Francisco Hoa Kỳ để đáp ứng lời thỉnh cầu tha thiết của cộng đồng Miến Điện. (Về sau, Ngài Hòa thượng Thiền sư U Kelasa chuyển qua hoằng pháp tại Tiểu Bang Maryland và trở thành vị Trụ trì tu viện Mangalarama).

Truyền Bá Giáo Pháp tại Hoa Kỳ

Từ khi đó Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda đã giảng dạy Phật Pháp gồm có Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) và dạy hành thiền Tứ Niệm Xứ trên toàn quốc. Ngài là một vị giảng sư xuất sắc và Ngài ít dùng từ Pali trong các bài pháp của Ngài khi các thiện tín không quen thuộc. Một Phật tử đã nói: "Ngài thuyết pháp từ kiến thức sâu rộng phi thường, Ngài truyền đạt rõ ràng và dùng tiếng Anh chính xác. Ngài được các thiền sinh và các Phật tử kính mến vì Ngài là một vị thầy tài năng, kiên nhẫn và từ bi.

Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda cũng là một vị Cố Vấn Tinh Thần của Cộng đồng Phật Giáo Nguyên Thủy Hoa Kỳ (TBSA: Theravada Buddhist Society of America) mà Ngài đã giúp đỡ để thành lập, và là vị sáng lập và Trụ Trì của tu viện Dhammananda Vihara tại Half Moon Bay, tiểu bang California.

Ngài cũng là vị Lãnh đạo Tinh thần của: Trung Tâm Thiền Định Dhammachakka tại Berkeley, tiểu bang California; Trung Tâm Phật Pháp Cội Bồ Đề (The Bodhi Tree Dhamma Center) ở Largo, tiểu bang Florida; Hội Thâm Cứu Phật Giáo (The Society for Advancement of Buddhism) tại Ft. Myers, tiểu bang Florida; và Như Lai Thiền Viện (Tathagata Meditation) ở San Jose, tiểu bang California.

Sứ Mệnh Hoằng Dương Phật Pháp

Ngài Hòa thượng Thiền sư U Silananda đã tiếp tục vô số sứ mệnh hoằng dương Phật Pháp qua những buổi thuyết pháp và hướng dẫn các khóa thiền ngắn hạn và dài hạn. Ngài Hòa thượng Thiền sư cũng đã hướng dẫn các khóa thiền tại Mã Lai và Tân Gia Ba (Singapore).

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

1.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập