Phật Dạy Trách Nhiệm Người Tại Gia

Đã đọc: 2790           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Người Phật tử là người biết tu học thực tập theo hạnh giác ngộ, giải thoát cho chính mình, do đó người Phật tử chân chính là người biết cách làm chủ bản thân, không bị các tham muốn dục vọng thấp hèn chi phối. Chúng ta là người học Phật phải dám chiụ trách nhiệm về những ý nghĩ, lời nói và hành động mình đã làm.

Phật tử là những người tu hành theo Phật là người cư sĩ tại gia, học hạnh từ bi và trí tuệ để được giác ngộ, giải thoát. Nghe theo sự hướng dẫn của chư Tăng, Ni các bậc hiền Thánh để nuôi dưỡng tâm từ bi và trí tuệ, hầu mong trở thành người Phật tử chân chính, biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, biết làm lành tránh dữ, luôn giữ tâm ý trong sạch.

Trong cuộc sống mọi người công dân đều có bổn phận đối với quốc gia, xã hội, cha mẹ có bổn phận và trách nhiệm đối với con cái, vợ chồng có bổn phận trách nhiệm thương yêu đùm bọc, san sẻ cho nhau, con cái biết quan tâm hiếu dưỡng cha mẹ, con người quan hệ giao dịch làm ăn qua lại theo nguyên lý nhân duyên quả, để được tồn tại và duy trì sự sống.

Người Phật tử là người biết tu học thực tập theo hạnh giác ngộ, giải thoát cho chính mình, do đó người Phật tử chân chính là người biết cách làm chủ bản thân, không bị các tham muốn dục vọng thấp hèn chi phối. Chúng ta là người học Phật phải dám chiụ trách nhiệm về những ý nghĩ, lời nói và hành động mình đã làm.

Người Phật tử chân chính là người phải xây dựng cho mình một ý chí và nghị lực mạnh mẽ, sống trong môi trường xã hội nhưng luôn biết cách tu dưỡng bản thân để ngày càng hoàn thiện chính mình hơn.

Trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, khả năng làm chủ bản thân của con người trở nên mong manh vì bị kẹt trong hệ lụy kinh tế xã hội... và các sự ràng buộc khác trong đời sống, muốn thoát ra khỏi dòng đời oan trái, là cả một sự khó khăn vô cùng, mà người thiếu ý chí, không có niềm tin về nhân quả khó có thể làm được. Vậy,

Bổn phận của người tại gia là những gì?  

Đã làm người, ai cũng có trách nhiệm và bổn phận liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau để bảo tồn sự sống. Phật là bậc đại giác ngộ hoàn toàn, đã chứng được tam minh lục thông nhờ siêng năng tu trì từ bi và trí tuệ và công hạnh độ sinh nhiều đời không biết mệt mỏi, nhàm chán.

Phật đã thấy rõ chúng sinh thăng lên lộn xuống trong ba cõi sáu đường do mình tạo ra, mình làm lành, được hưởng phước báo cõi trời, người; mình làm ác chịu quả khổ đau ba đường dưới địa ngục, quỷ đói, súc sinh không ai có quyền ban phước giáng họa cho ta cả.

Chúng ta muốn làm người Phật tử chân chính, tất phải nghe những lời Phật  dạy, rồi suy gẫm quán chiếu và làm theo những việc Phật đã làm, đi theo con đường Phật đã đi. Do đó, người Phật tử tại gia, có những trách nhiệm và bổn phận như sau:  

1-Bổn phận đối với chính mình.

2-Bổn phận đối với gia đình, người thân.

3-Bổn phận đối với cộng đồng xã hội.  

a- Bổn phận đối với chính mình   

Ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, người thân chúng ta phải làm sao xứng đáng là một người Phật tử chân chính, bằng cách tu tâm dưỡng tánh, để cho thân tâm được an lạc, bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, đều sống trong biển khổ sông mê bởi tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn ngon, mặc đẹp, nên đã luân hồi sinh tử không có ngày thôi dứt. Ngày nay, chúng ta được đầy đủ phước duyên mới được làm đệ tử Phật, có điều kiện học hỏi Phật pháp, rồi quán chiếu, nghiệm xét và tu sửa những thói hư tật xấu, để ngày càng hoàn thiện chính mình hơn.

Ngoài việc quy y Tam bảo, vâng giữ năm điều đạo đức, tin sâu nhân quả, tu mười điều lành tránh xa các việc xấu ác, sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng và cuối cùng là phước huệ song tu, hành Bồ tát đạo cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.

b- Bổn phận đối với gia đình, người thân  

Người Phật tử tại gia còn có gia đình người thân, nên phải có trách nhiệm làm sao vuông tròn cả hai bên chồng và vợ. Đã làm người thì ai cũng có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái, bà con thân thích tạo nên quyến thuộc nội ngoại hai bên, cùng nhau gìn giữ và phát triển giống nòi nhân loại.

Đối với gia đình người thân, quý Phật tử phải khéo sắp xếp trong cách đối nhân xử thế, để làm tròn bổn phận giữa hai bên với nhau mà vẫn giữ được hòa khí vui vẻ, bằng tình người trong cuộc sống.  

Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta về đạo lý làm người, để giữ gìn các mối quan hệ có tính cách nhân bản, nhằm giúp chúng ta hoàn thiện chính mình. 

 

Đức Thế Tôn cứ theo thông lệ mỗi ngày đi vào xóm làng khất thực, trên đường đi, Thế Tôn thấy một chàng thanh niên đang lễ bái sáu phương rất là thành tâm: Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới.

Đây là một bản kinh nguyên thủy, ngắn gọn, xúc tích ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách làm tròn bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng hơn là Phật dạy cách xây dựng phát triển một xã hội hài hòa, bền vững và lâu dài về mọi mặt trong cuộc sống.

 

Phật dạy tránh bốn việc ác và sáu việc làm hao tổn tài sản

 

Khi Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, dẫn đầu đoàn khất thực với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-Kheo đi vào thành, đức Thế Tôn thấy một gia chủ tên Thiện Sanh đang lễ bái sáu phương, Ngài hỏi:

 

“Vì cớ sao, nhà ngươi vào buổi sáng sớm mỗi ngày đến đây, để lễ lạy sáu phương như thế?”

 

Thiện Sanh bạch Phật:

 

Cha con khi còn sống có dặn rằng: “Con mỗi ngày hãy cung kính lễ lạy sáu phương Đông,Tây, Nam, Bắc, trên và dưới”. Con nghe theo lời cha dạy không dám chống trái”.

 

Phật bảo Thiện Sanh: “Này chàng thanh niên hiếu thảo! Con lễ lạy sáu phương đó rất là tốt, nhưng trong pháp hiền Thánh của ta, lễ sáu phương như vậy chưa phải là thật sự cung kính”.

 

Thiện Sanh thưa: “Cúi xin đức Thế Tôn thương tưởng mà chỉ dạy cho con cách lễ lạy sáu phương theo pháp hiền Thánh”.

 

Phật bảo Thiện Sanh: “Nếu tất cả mọi người biết tránh bốn nghiệp xấu ác làm tổn hại người khác, và biết rõ sáu nghiệp làm hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sanh, nếu ai biết tránh được bốn việc ác là chân thật lễ kính sáu phương”.

 

Bốn nghiệp xấu ác đó là: Sát sinh hại vật, trộm cướp lường gạt của người khác, tà dâm, nói dối hại người, đây là bốn điều xấu ác mà người Phật tử chân chính phải nên tránh xa.

 

Do chúng ta gieo tạo bốn ác nghiệp đó, nên ta tham muốn, sân hận, ngu si và lo lắng sợ hãi. Có hai loại muốn mà ai cũng có thể bị nó chi phối là tham muốn và mong muốn. Tham muốn là sao? Là nhất quyết muốn cho bằng được, nếu không được thì bất mãn, tức tối khó chịu, phiền muộn giận dỗi phát sinh tìm cách chiếm đoạt.

 

Do đó tham muốn càng nhiều thì càng phát sinh các thứ phiền não, vì tham muốn mà không được như ý, nếu được thì tham càng thêm tham, nếu tham không được thì sinh ra giận hờn khó chịu, tìm cách trả thù. Như chúng ta đã biết, ít ai trong cuộc đời này mà không tham muốn. Có sự sống là có tham muốn, nhưng tham muốn nhiều hay ít là tùy theo sở thích của mỗi người mà thôi.

 

Tham có nghĩa là tham lam ích kỷ, nhỏ mọn, làm cái gì cũng muốn đem về cho riêng mình, dù có của dư thà để đó mục nát, chứ không dám đem ra giúp đỡ cho người khác.

 

Mong muốn có nghĩa là mong cầu, ước mơ, nếu có cũng được, không có cũng không sao. Tham muốn và mong muốn khác nhau ở chỗ đó, một đàng muốn cho bằng được, nếu không được thì nỗi giận oán hờn tìm cách trả đủa và quyết tâm chiếm đoạt về cho mình, nên bất chấp luân thường đạo lý có khi cũng phải giết người để thỏa mãn lòng tham muốn của mình.

 

Trong cuộc sống này chúng ta có quyền ước mơ mong muốn, chớ đừng nên tham muốn quá đáng mà làm tổn hại người khác, gây khổ đau cho nhau.

 

Sáu nghiệp làm hao tổn tài sản:

 

1- Đam mê rượu chè.

 

2- Đam mê cờ bạc.

 

3- Phóng túng sa đọa.

 

4- Đam mê ca hát múa.

 

5- Kết thân với bạn ác.

 

6- Ỷ lại và lười biếng.

 

Phật bảo Thiện Sanh:

 

Này Thiện Sanh, nếu ai không làm theo bốn nghiệp ác trên, lại biết tránh xa sáu điều hao tốn tài sản là chân thật cung kính sáu phương, thì hiện tại và mai sau đều an vui, hạnh phúc. Hiện đời được mọi người thương mến và khen ngợi, sau khi chết được tái sinh vào cõi lành.

 

Phật dạy tiếp: “Sáu phương là gì? Phương Đông là lễ lạy cha mẹ, phương Nam là lễ lạy sư trưởng, phương Tây là vợ con thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là người làm công”. Phật khéo léo chuyển hóa lễ sáu phương thông thường, bằng cách dạy chàng thanh niên trong đối nhân xử thế, phải biết phép tắc, tôn y trật tự từ thấp đến cao.

 

Do nghiệp lực chiêu cảm nên mới tạo ra mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Vậy phận làm con, cần phải biết hiếu thảo với cha mẹ mới xứng đáng là người con thảo cháu hiền theo lời Phật dạy.

 

                  Hiếu dưỡng mẹ và cha,

                  Nuôi dưỡng vợ và con,

                  Làm nghề không tổn hại

                  Là an vui hạnh phúc.

 

Do con cái tương ưng với duyên nghiệp của cha mẹ nên nghiệp chủng này nương gá vào, tác hợp với điều kiện của người cha và người mẹ, để hình thành một chúng sinh mới gọi là con người. Từ đây có thể thấy, do nhân duyên nhiều đời mới kết thành quan hệ cha mẹ và con cái.

 

Biết ơn là ghi nhận công lao của cha mẹ đối với con cái. Nhớ ơn là người có lòng nhân, biết nghĩ công khó nhọc hai đấng sinh thành mà hiếu dưỡng về vật chất lẫn tinh thần. Nếu như cha mẹ luôn làm tròn trách nhiệm và bổn phận đối với con cái một cách đầy đủ về mọi mặt, đó là bậc cha mẹ có nhân cách đạo đức và hiểu biết chân chính.

 

Phật giáo vượt lên trên mọi pháp thế gian và xuất thế gian, nên nói đến cha mẹ là nói đến lòng từ bi rộng lớn, nói đến phận làm con là sự hiếu thảo và dạy cho mọi người biết làm tròn bổn phận của mình, rồi sau đó mới tu pháp giác ngộ, giải thoát.

 

Gia đình là nền tảng, là nhân tố tích cực cho xã hội, nó giúp cho mối liên hệ giữa con người với nhau hình thành một nhân cách sống. Mối quan hệ thân thiết nhất là mối quan hệ gia đình giữa cha mẹ, vợ chồng và con cái…nó được kết nối bằng sợi dây huyết thống, bởi tình cảm của khối óc và con tim.

Đạo Phật là đạo hiếu hay tâm hiếu là tâm Phật, vì đức Phật thường khen ngợi những người con hiếu thảo. Đức Phật thường nói rằng, sở dĩ ta tu hành thành Phật là nhờ công ơn cha mẹ, nếu không có mẹ sinh, cha nuôi dưỡng thì làm sao ngày hôm nay ta mới được thành Phật. 

Trong kinh Phật dạy: “Mẹ hiền còn gọi là giàu có, mẹ hiền mất đi gọi là nghèo khổ. Mẹ hiền còn là mặt trời mọc giữa trưa, mẹ hiền mất đi là mặt trời lặn buổi chiều. Mẹ hiền còn như đêm trăng sáng, mẹ hiền mất đi như đêm tối không trăng”. Người Phật tử chân chính, khi cha mẹ còn hiện tiền thì ta phải có lòng cung kính hiếu dưỡng để cho cha mẹ được vui lòng. 

1- Nuôi dưỡng cha mẹ  

Ngoài những trách nhiệm lo cho gia đình người thân và đóng góp xã hội, thì một người con cần có bổn phận phải chăm lo đầy đủ các điều kiện vật chất và tinh thần cho cha mẹ. Người xuất gia, nếu như không có anh em lo cho cha mẹ thì vẫn được Phật cho phép phụng dưỡng cha mẹ trong khả năng của mình.

Siêng năng làm việc để có của cải nuôi dưỡng cha mẹ: Trách nhiệm đạo đức trước tiên của một người con đối với cha mẹ, là phải biết làm tăng thêm tài sản của cải, vật chất để nuôi dưỡng cha mẹ. Hay nói cách khác người con phải lấy sự biết ơn và đền ơn, bằng cách chăm sóc cha mẹ đầy đủ về đời sống vật chất lẫn tinh thần.

Tăng thêm của cải để bảo đảm đời sống gia đình bằng khối óc và con tim  mình, đó tinh thần trách nhiệm cao của người con biết hiếu thảo. Cuộc sống này nếu thiếu tiền bạc của cải, thì cũng không thể lấy gì mà phụng dưỡng cho cha mẹ khi cần thiết.

Chúng ta có thể dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn, bởi vì sao? Cha mẹ đã suốt đời hy sinh vì con cái, cũng không ai đòi hỏi con cái phải dâng hiến cho mình những gì vượt ngoài khả năng của con cái. Cho nên phận làm con, phải luôn biết vâng lời cha mẹ, tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế của gia đình mà lo cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn, không đợi cha mẹ phải đòi hỏi.

Trong xã hội ngày nay, nhiều người con sống trong cảnh nhà cao cửa rộng vật chất đủ đầy, nhưng vẫn để cho cha mẹ nghèo khổ, thiếu thốn khó khăn. Chính vì thế mà tục ngữ có câu:

       “Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng

        Con nuôi cha mẹ con tính tháng tính ngày”.

Đây quả thực là một tình trạng đáng buồn trong xã hội hiện nay, ơn cha mẹ được ví như trời cao biển rộng mà ta nở lòng nào tính tháng ngày khi nuôi cha mẹ. Rồi kế đến là ân nuôi nấng, từ khi mới sinh ra cho đến khi khôn lớn, cha mẹ phải lo lắng tốn kém đủ mọi thứ, để lo cho con ăn no, mặc ấm và an giấc ngủ ngon lành, mong cho con mau lớn nên người.

Khi con đau ốm, bệnh hoạn cha mẹ phải lo săn sóc, thuốc thang chữa trị cho con, đến nỗi phải quên ăn mất ngủ, cốt làm sao mong cho con được  khỏe mạnh là cha mẹ đã vui lòng.

Khi con có hiểu biết, cha mẹ phải dạy bảo con trong cách ăn uống, học hành, đi đứng nói năng lễ phép và trong đối nhân xử thế, đến khi khôn lớn bước vào cuộc đời, tự làm việc để nuôi sống bản thân, làm tròn trách nhiệm đối với gia đình và đóng góp lợi ích cho xã hội.

Cha mẹ là hai đấng sinh thành có ân nghĩa cao cả đối với con cái, có công lao to lớn hơn trời cao biển rộng, cho nên bổn phận người con phải biết hiếu thảo cung kính dưỡng nuôi, ai đã từng làm cha mẹ rồi mới thấy công ơn cha mẹ không gì có thể sánh bằng.          

Ngược lại làm con phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, tùy theo hoàn cảnh cuộc sống mà ta có thể lo lắng, chăm sóc cho cha mẹ đầy đủ các phương tiện vật chất lẫn tinh thần, để cha mẹ được vui vẻ hạnh phúc. Làm con mỗi ngày phải thức khuya dậy sớm, để lo sắp đặt miếng ăn thức uống cho cha mẹ được ăn ngon cảm thấy vừa miệng.  

Không tự làm gì khi chưa hỏi cha mẹ và không được trái ý cha mẹ: Mỗi một gia đình đều có truyền thống riêng mà các bậc ông bà tổ tiên đã dày công xây dựng. Người con hiếu thảo ngoài việc làm tròn bổn phận, phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ đúng pháp, còn là người biết gìn giữ các giá trị văn hóa và di sản truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Bổn phận người làm con khi muốn làm công việc gì cũng phải hỏi ý kiến cha mẹ trước, mục đích để giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình. Đạo Phật không dạy chúng ta phải tin theo các tín ngưỡng lạc hậu, mê tín có tính cách làm tổn hại con người.

Làm con trước tiên phải nhớ ân sinh sản, mẹ chín tháng cưu mang, ăn uống phải kiêng cử, giữ gìn cẩn thận trong khi làm việc hay đi, đứng, ngủ, nghỉ lúc thai mang. Trước khi sinh con đau đớn trăm bề tính mạng hiểm nguy, có khi phải bị mất mạng. Còn cha phải lo làm lụng vất vả, nhọc nhằn để lo cho mẹ tròn con vuông.

Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội, mà trước tiên là phải lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất cho cha mẹ như cúng dường thuốc thang, tiền bạc, quà cáp mỗi khi thăm viếng và nuôi dưỡng cha mẹ khi đau ốm bệnh hoạn hay trong lúc tuổi già.

Ở đây, một người con hiếu thảo khi phụng dưỡng cha mẹ thì cần phải biết quan tâm, cung kính, thương yêu chân thành, khi cha mẹ thải đồ bất tịnh cũng không được than phiền khó chịu. 

2- Thay thế cha mẹ gánh vác công việc nặng nhọc  

Con cái chính là sự tiếp nối quan trọng, để duy trì nghề nghiệp, công việc của cha mẹ. Nếu trong gia đình mà không có người kế nghiệp được xem như là một bất hạnh lớn. Để tồn tại trên cuộc đời này, chúng ta cần phải có nghề nghiệp để sống, bất luận sang hèn, hay giàu nghèo. 

Dù đó là các nghề làm ruộng trồng hoa màu và các loại cây ăn trái, hoặc mua bán trau đổi hàng hóa hai chiều, hoặc chăn nuôi các loại gia súc,  hoặc làm việc cho vua, quan hoặc bất cứ nghề gì dù là thấp kém, trong các nghề ấy, mọi người hãy siêng năng, tinh cần dùng bàn tay và khối óc của mình, để sản xuất làm việc và phục vụ là được.

Cáng đáng việc nhà, làm tròn bổn phận đối với cha mẹ: Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo của người tại gia. Có nhiều trường hợp đặc biệt, người con vì thương kính cha mẹ mà làm nhiều điều xấu xa tội lỗi, để chu cấp thức ăn uống cho cha mẹ.

Khi đã xây dựng hạnh phúc gia đình riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng chánh pháp, không làm các điều ác, mà hay làm các việc lành, thay cha mẹ làm các việc nặng nhọc.

Như chúng ta đã biết, ai cũng phải ăn uống mới bảo tồn sự sống, cho nên  một người con phải có hiểu biết chân chính và làm được những nghề nghiệp mà cha mẹ đã làm và đã truyền dạy lại cho ta. Thay thế cha mẹ phát triển và mở mang nghề nghiệp thêm lớn mạnh, là nhiệm vụ cao cả của phận làm con.

Trong bổn phận làm con, ngoài mục đích mưu sinh để đảm bảo đời sống vật chất đủ đầy cho bản thân, ta còn phải gánh vác, đỡ đần công việc cho cha mẹ. 

3- Giữ gìn truyền thống gia phong 

Truyền thống gia phong là truyền thống đạo đức gia đình, của dòng tộc được giữ gìn và truyền thừa qua nhiều thế hệ tiếp nối. Truyền thống này có thể bao gồm cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, truyền thống gia phong ở đây là chúng ta phải hiểu rõ và thấm nhuần những giá trị đạo đức tốt đẹp. 

Đạo đức tốt đẹp thuần thiện là chất liệu sống, cần phải có trong các mối quan hệ giao tế, trong cách đối nhân xử thế giữa con người và các đối tác xung quanh. Chất liệu tốt đẹp đó được chắt lọc, tích lũy qua nhiều thế hệ trước đó, để rồi cuối cùng kết thành truyền thống gia phong của từng gia đình người thân và quyến thuộc. 

Giữ gìn truyền thống gia phong tốt đẹp còn được hiểu là mọi người chúng ta phải tự hoàn thiện tư cách đạo đức cá nhân. Phận làm con, việc giữ vững gia phong bằng cách chuyển hóa những thói xấu của bản thân, sống đúng, sống tốt theo lời Phật dạy cũng là một trong những phương cách giữ gìn truyền thống gia phong, được bền vững và lâu dài. 

Một nhân cách sống được người trí tán thán và khen ngợi, đó chính là chúng ta biết từ bỏ sát sinh hại vật, trước tiên là không được giết người, kế đến là biết hạn chế giết hại từ con vật lớn cho đến các loài nhỏ nhít. Rồi chúng ta không gian tham trộm cướp hay lường gạt của ai, rồi sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người và không uống rượu say sưa và dùng các chất độc hại như xì ke ma túy. 

4- Bảo vệ tài sản được kế thừa từ cha mẹ 

Tài sản mà cha mẹ để lại bao gồm tất cả những giá trị vật chất lẫn tinh thần. Việc giữ gìn truyền thống gia phong chính là chúng ta biết sống tốt, không làm tổn thương đến người khác và còn hay giúp đỡ sẻ chia khi có nhân duyên. Ngoài ra, việc quản lý, giữ gìn và phát triển tài sản vật chất mà cha mẹ đã để lại cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với con cái. 

Bằng mồ hôi và nước mắt, bằng con tim và khối óc với đôi bàn tay siêng năng, cha mẹ đã để lại một gia tài cho ta thừa hưởng. Việc quản lý giữ gìn tài sản gia phong được bền vững và lâu dài, là bổn phận quan trọng và cần thiết của những người con. 

Chúng ta cần phải biết, việc tạo ra tài sản không phải dễ, nó đòi hỏi con người phải có đầy đủ năm yếu tố cơ bản: thứ nhất siêng năng tinh cần, thứ hai là tiết kiệm, thứ ba là không phóng túng hoang phí, thứ tư là khộng trộm cướp của ai và thứ năm là biết giúp đỡ, sẻ chia khi có nhân duyên. Việc tích lũy tài sản đã khó nhưng việc giữ gìn, bảo vệ tài sản đó được tồn tại lâu dài lại càng khó hơn. 

5- Khuyến khích cha mẹ hướng thiện và biết quy hướng về Tam bảo 

Con cái có thể báo đáp thâm ân cao cả của cha mẹ qua hai phương diện vật chất và tinh thần. Theo Phật giáo, phương diện tinh thần tức là phần tâm linh của chúng ta rất quan trọng và cần thiết, vì tâm ý suy nghĩ rồi mới nói năng và hành động. 

Giáo lý đạo Phật ngoài việc chỉ dạy cho người xuất gia được giác ngộ, giải thoát hoàn toàn, mà Đức Phật còn chỉ dạy cách đối nhân xử thế để hoàn thiện đạo lý làm người trong gia đình và xã hội. Một con người sống có nhân cách đạo đức dù bất cứ ở hoàn cảnh nào, cũng có thể giữ mối quan hệ tốt đẹp bằng tình người trong cuộc sống.

Ngoài việc phải gánh vác tất cả công việc nặng nhọc, thay thế cho cha mẹ, để cha mẹ được phấn khởi vui vẻ trong lúc tuổi già. Người con hiếu lúc nào cũng nhớ ơn sanh thành, dưỡng dục, mà ráng lo báo đáp khi cha mẹ còn sanh tiền. Khi cha mẹ đau ốm, phải hết lòng săn sóc, hầu hạ bên giường, không nài khó nhọc, lo thuốc thang điều trị cho cha mẹ sớm mau hết bệnh mà không sợ hao tốn.

Mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái là mối quan hệ thiêng liêng và cao quý mang tính từ bi và hỷ xả. Các bậc cha mẹ không chỉ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái mà còn lo về phần tinh thần, giúp cho con cái có hiểu biết chân chính để sống tốt cùng với mọi người. Và bổn phận người con cũng phải chăm sóc đầy đủ cho cha mẹ phần vật chất lẫn tinh để cha mẹ được an vui, hạnh phúc, trong giờ phút hiện tại.

                                 Kinh Bổn sự nói:

                                 Trên đời có hai người

                                 Ân sâu khó đền đáp

                                 Đó là cha và mẹ

                                 Sinh ta, nuôi lớn ta.

Giả sử dùng hai vai đến trăm kiếp ngàn đời cõng cha mẹ, thường cung kính cúng dường cho ăn uống đầy đủ, cũng không đền đáp hết ân cao cả của mẹ cha. Vì cha mẹ đối với con cái sinh thành và dưỡng nuôi, dạy dỗ điều hay lẽ phải, thương yêu con cái chẳng nệ hà thân mình, để lo hạnh phúc cho con.

Phận làm con nếu khuyên cha mẹ biết quy hướng Tam bảo, tin sâu nhân quả tu học theo chánh pháp Phật đà, như vậy mới chân thật đền đáp ân sâu. Có cha mẹ biết đi chùa tin sâu Tam bảo là phước báo lớn cho gia đình người thân. Tu học Phật pháp giúp cho cha mẹ an vui nơi chánh pháp, sống ít phiền muộn về tuổi già, vui hưởng an lạc hạnh phúc hiện tại và mai sau.

Chúng ta có cha mẹ biết tin sâu nhân quả hay đi chùa là phước báo to lớn cho gia đình người thân. Kinh Báo hiếu Đức Phật dạy:

“Ví có người ơn sâu dốc trả, cõng mẹ cha tất cả hai vai, giáp vòng hòn núi Tu-Di, đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền”.

Sự sống của chúng ta hiện nay là đã mang ơn, thọ ơn trong nhiều đời kiếp. Nhất là thâm ân cao cả, ơn nghĩa sinh thành dưỡng dục của cha mẹ trong nhiều đời.

Tục ngữ Việt Nam có câu “thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”, điều đó nói lên tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của văn hóa gia đình, đối với đạo đức Phật giáo trong thời đại hiện nay.

Đạo thờ ông bà tổ tiên là một truyền thống của người Việt Nam từ ngàn xưa cho đến nay, đã tôn vinh sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, được thể hiện qua ca dao: 

“Công cha nghĩa mẹ cao vời

Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta

Làm con nên phải xót xa

Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao”. 

Đạo Phật là đạo hiếu, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Đối với người tu theo đạo Phật, hiếu thuận là hành trang cơ bản của nhân loại trên bước đường dẫn đến giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. 

Trong kinh Phật dạy: “Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn tu hành đến nay mới thành Phật, toàn là nhờ công ơn của cha mẹ. Vậy nên người học Phật phải nên cung kính hiếu thảo cha mẹ”. Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ nên vô ngã vị tha, vậy người học Phật phải ý thức rằng: 

“Nước biển mênh mông không đong đầy lòng mẹ

 Mây trời lồng lộng không phủ kín tình cha”.  

Cho nên người Việt Nam sống với nhau theo truyền thống “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, đó cũng là một biểu hiện của tính tương thân tương trợ cho nhau bằng tình người trong cuộc sống, con người nếu không có lòng hiếu thảo thì không thể làm được mọi việc tốt đẹp. 

Biết ơn và đền ơn là giáo lý nền tảng của người Phật tử chân chính, khi thọ ơn ai dù là việc nhỏ nhặt nhất cũng không bao giờ quên. Nếu ai làm được như vậy người thế gian gọi đó là người tốt vì chúng ta biết sống có tình, có nghĩa đối với mọi người. 

Biết ơn là nền tảng đạo đức sống của nhân loại, nên ơn nghĩa là cái gốc của đạo làm người. Con cái luôn hiếu kính với cha mẹ vì biết ơn mang nặng đẻ đau, công sinh thành dưỡng dục. Học trò quý kính, biết ơn thầy cô giáo nên cố gắng siêng năng, chăm chỉ học hành. 

Trong cuộc sống, Phật thường nêu lên bốn ơn lớn là ơn cha mẹ, ơn thầy tổ, ơn đất nước và ơn đàn na tín thí để khuyên nhủ và răn dạy mọi người. Công ơn cha mẹ là một trong bốn ơn trọng, chúng ta phải có trách nhiệm đáp đền. 

Một người con hiếu kính thì sẽ ăn nên làm ra, công thành danh toại, kẻ bất hiếu thì ít khi làm nên sự nghiệp. Đa số người con bất hiếu đều dính vào vòng tệ nạn xã hội, cha mẹ mà còn không biết ơn nghĩa, thử hỏi làm sao mở rộng tấm lòng giúp đỡ người xung quanh. Do đó, người con bất hiếu luôn thất bại trong cuộc sống và thường xuyên bị người đời chê trách, chính vì vậy mà hay làm khổ sở mẹ cha. 

Phật dạy, niềm vui của bậc hiền Thánh là biết hiếu kính với cha mẹ, nhiều người không hiểu cứ nghĩ cúng dường cho người tu là có phước nên nghe đồn ở đâu có linh ứng một chút thì đùng đùng kéo đến cúng dường, bỏ mặc cha mẹ ở nhà khổ sở, thiếu thốn. Tu như vậy là đi ngược lại lời Phật dạy. 

Trên đời này ai còn đủ mẹ cha là một phước báu to lớn, người con ấy thật hạnh phúc vì còn có cơ hội báo hiếu, chăm lo phần vật chất lẫn tinh thần, giúp cha mẹ an vui trong tuổi già nhờ biết quy hướng Tam Bảo. Phận làm con phải biết quan tâm, lo lắng, giúp đỡ để cha mẹ được an vui, hạnh phúc và một lòng tôn kính, quý trọng. Người con hiếu trước tiên phải biết vâng lời và kính trọng cha mẹ, nên ca dao có câu:

               Thương cha mến mẹ con làm,

               Không sợ tốn kém, không nề gian nan.

               Công cha nghĩa mẹ khó đền,

               Vào thưa, ra hỏi mới là đạo con. 

 

Song bên cạnh đó, ở mỗi nhà Phật tử, bàn thờ Phật thường được trang trọng ở giữa nhà cao hơn bàn thờ gia tiên, để người con hiếu thảo tỏ lòng tôn kính Tam Bảo và ông bà tổ tiên. 

Chính vì vậy hàng năm, ngày lễ Vu Lan nhắc nhở những người con hiếu thảo tỏ lòng biết ơn cha mẹ hiện tiền, tưởng nhớ cha mẹ nhiều đời để ngày càng sống tốt hơn, trong tình thương yêu bình đẳng với tất cả mọi người bằng trái tim hiểu biết. 

Bổn phận con cái đối với cha mẹ là hiếu thảo kính yêu, cung cấp và nuôi dưỡng cha mẹ đầy đủ vật chất lẫn tinh thần, giúp những việc cha mẹ cần làm, giữ danh dự và truyền thống gia đình, giữ gìn tài sản, sự nghiệp của cha mẹ.  

Cha mẹ cũng có bổn phận nuôi nấng con khôn lớn và giáo dục con nên người, giúp con có nghề nghiệp, hướng con theo đường lành, dựng vợ gả chồng cho con, trao của thừa tự cho con đúng lúc.

Theo lời Phật dạy, cha mẹ sinh con cái không phải để thỏa mãn dục tính mà là thể hiện tình thương yêu đối với một phần máu mủ và sự sống của chính mình. Cho nên trách nhiệm làm cha mẹ đối với con cái là sợi dây huyết thống, cùng với một phần máu thịt mình đã sinh ra. Cha mẹ phải dạy cho con cái nên người.

Theo quan niệm trọng nam khi nữ từ ngàn xưa, con trai thường được cha mẹ thương yêu nhiều hơn con gái. Đó quan niệm con trai nối dõi tông đường, họ cho rằng nữ nhi ngoại tộc con gái phải theo chồng. Đứng trên quan điểm về nhân quả, trai hay gái cũng là con mình, nên các bậc làm cha mẹ phải thương yêu con cái bình đẳng.

Trong kinh đức Phật luôn nhấn mạnh đến nhân cách đạo đức trong mối quan hệ cha mẹ đối với con cái. Chính do tình thương yêu chân thật mà các bậc cha mẹ lúc nào cũng có trách nhiệm, bổn phận đối với việc nuôi  dạy con cái khôn lớn trưởng thành và sống có lợi ích cho xã hội, qua năm tiêu chí sau: 

 

Thương yêu con cái: Mối quan hệ của các bậc cha mẹ trong đạo Phật được đặt trên cơ sở đạo đức, do đó, sự ra đời của con cái không phải nhu cầu thỏa mãn các khoái lạc giác quan thông thường mà còn có tinh thần trách nhiệm. Các bậc cha mẹ xem việc nuôi nấng con cái là nền tảng đạo đức, là trách nhiệm thiêng liêng cao quý, mà ai làm cha mẹ cũng muốn con cái mình lớn khôn và trưởng thành.

Trong trách nhiệm thứ nhất này, các bậc cha mẹ ngoài việc nuôi nấng con cái về thể chất, còn phải nuôi con cái hiểu biết nhân cách sống bằng đạo đức và lòng yêu thương chân thành. Bởi vì con cái mình mà ta không thể yêu thương được, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể yêu thương những người khác. Ngoài ra, yêu thương con cái phải đúng theo tinh thần Phật dạy, trước tiên chỉ dạy con cái không làm các việc xấu ác, mà hay làm việc thiện lành, phải chấp hành luật pháp xã hội, duy trì truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Các bậc cha mẹ giáo dục con cái như vậy, là sự giáo dục của người có nhân cách đạo đức, có hiểu biết, có trí tuệ, biết nhìn xa trông rộng, không để cho con cái ỷ lại vào cha mẹ, hướng dẫn chúng tính tự lập và tin sâu nhân quả. Các bậc cha mẹ thương yêu con cái trong mù quáng, vô tình đưa con mình vào con đường tội lỗi, như vậy sẽ trở thành chướng ngại cho đời sống gia đình và xã hội.

Giáo dục con cái trong gia đình, vai trò người mẹ rất quan trọng, từ khi mới mang thai mẹ phải ăn uống kỹ lưỡng chừng mực, khời nghĩ làm điều thiện để ảnh hưởng đứa con sau này.

Cung cấp cho con cái đầy đủ: Điều thứ hai mà cha mẹ có trách nhiệm với con cái là không để chúng thiếu thốn về vật chất và tinh thần. Trên phương diện vật chất, bậc làm cha mẹ phải tùy vào khả năng có được, để lo cho con cái đầy đủ như ăn uống mặc ở cho đến các phương tiện học hành phát triển tài năng, trí tuệ. Trên phương diện tinh thần, cha mẹ phải thường xuyên quan tâm chăm sóc, chia sẻ hỏi han để động viên con cái vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ngày nay, nhiều bậc cha mẹ chỉ biết cung cấp cho con cái về mặt vật chất mà thiếu sự quan tâm về mặt tinh thần, do bộn bề công việc hoặc ham làm giàu quá mức mà lãng quên con cái. Do đó, con cái dễ bị bạn bè xấu quyến rũ, bị sa đọa vào các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy, bậc làm cha mẹ phải biết quan tâm về hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Tạo dựng nghề nghiệp chân chính cho con cái: Tạo dựng nghề nghiệp chân chính cho con cái, nhằm đảm bảo an sinh đời sống về lâu dài. Phật giáo luôn lấy nhân quả làm nền tảng để giáo dục mọi người ý thức rằng “nhân quả tốt xấu là do mình tạo ra”. Đây là phương cách giáo dục vô cùng sáng suốt vì đã loại bỏ yếu tố ỷ lại vào người khác, và phát triển năng lực làm chủ bản thân.

Các bậc cha mẹ phải biết cách hướng dẫn con cái tinh thần tự lực, sống không ỷ lại mà cố gắng siêng năng trau giồi nghề nghiệp mình đang làm theo quy luật cuộc sống có đạo đức. Con cái biết phát huy tinh thần tự lực, dưới sự hướng đạo của cha mẹ, mới thật sự lớn khôn trưởng thành trong xã hội.

Sự sống nhờ vả, dù đó là nhờ vào cha mẹ, cũng chỉ là giải pháp tạm thời không giúp ích cho con cái về sau này, nếu chúng vẫn còn quan niệm ỷ lại. Con người ta chỉ thật sự trưởng thành, bằng sự tự lập với đôi bàn tay và khối óc của mình, mới có thể tồn tại lâu dài. Chính sự giáo dục này giúp cho con cái thoát khỏi các cạm bẫy ăn chơi sa đọa, góp phần ổn định an sinh đời sống của bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội.

Tìm nơi chốn xứng đáng để dựng vợ gả chồng cho con cái: Trách nhiệm của các bậc cha mẹ ngoài việc giáo dục đạo đức tránh ác làm lành, ổn định nghề nghiệp, mà còn chăm lo đến đời sống lứa đôi cho con cái. Đạo Phật đề cao tinh thần bình đẳng trong mối quan hệ hôn nhân trong tình yêu.

Khi con cái đã đến tuổi trưởng thành, việc quyết định đời sống hôn nhân của chúng được quyền lựa chọn theo nhân duyên của mỗi người. "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên" là một phương châm bình đẳng, khuyến khích bậc làm cha mẹ không nên cưới vợ hoặc gã chồng theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”.

Cha mẹ không chỉ là người sinh ra con cái mà còn là người thầy giáo đầu tiên dạy dỗ, người hướng dẫn đời sống hôn nhân trong tình yêu cho con cái. Ngoài việc, truyền trao kinh nghiệm trong hôn nhân cho con cái, các bậc cha mẹ còn phải hướng dẫn con cái chọn lựa người bạn đời thích hợp để đảm bảo hạnh phúc gia đình.

Ở góc độ đạo đức, người con khôn ngoan nên biết chọn cho mình người bạn đời có đủ phẩm chất đạo đức ít nhất như mình. Hoàn toàn không có chuyện ép buộc và sắp đặt của cha mẹ trên vấn đề hôn nhân của con cái. Đây chính là tinh thần giáo dục rất phù hợp đời sống hôn nhân hiện đại.

Trong việc dựng vợ gả chồng xứng đáng cho con cái sống đời hạnh phúc trong hôn nhân, không chỉ có được từ sự giàu sang mà phải tương thích về phẩm chất đạo đức, ổn định công ăn việc làm và hạnh nguyện dấn thân chia sẻ. Trong bất kỳ cuộc hôn nhân nào nếu có sự tương thích về đời sống đạo đức và có lý tưởng đúng đắn, biết cảm thông tha thứ cho nhau thì đảm bảo hạnh phúc lâu dài.

Cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con cái: Trách nhiệm thứ năm này mang ý nghĩa pháp lý và tính nhân bản cao, việc truyền trao này bao gồm di chúc và tài sản thừa tự cho con cái. Có nhiều bậc cha mẹ đã không nghĩ tới chuyện này khi còn khỏe mạnh. Do đó, khi nhắm mắt ra đi,  anh chị em tranh giành tài sản do cha mẹ để lại, dẫn đến cảnh tan nhà nát cửa.

Chính vì thế, để tránh các tình trạng trên, Đức Phật đã dạy các bậc cha mẹ phải di chúc và truyền lại gia tài khi mình còn sáng suốt và khỏe mạnh, trên tinh thần bình đẳng chia đều cho con cái, không kể là gái hay trai.

Quan trọng hơn hết là cha mẹ không nên chìu chuộng con quá mức, tục ngữ có câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Thái độ nuông chìu quá đáng làm cho con cái dễ dàng hư hỏng và thêm bịnh ỷ lại, lười biếng mà sinh ra nhiều cố tật, dễ vướng vào tệ nạn xã hội.

Cha mẹ luôn luôn có bổn phận chăm lo cho dưỡng dục con cái, chẳng những lo chúng ăn no, mặc ấm mà cha mẹ nào cũng muốn cho con mình ăn ngon, mặc đẹp, lo cho con học hành thành tài để có một nghề nghiệp ổn định, có danh phận địa vị với xã hội. Làm cha mẹ phải có bổn phận thiêng liêng hơn, hướng dẫn con cái mình bước vào đường đạo và tin sâu nhân quả, tránh ác làm lành để sống đời thánh thiện đạo đức.

Cha mẹ phải biết giáo dục khi chúng còn nhỏ: Trẻ con từ 3 đến 12 tuổi, mỗi lần đi chùa, chúng ta nên dẫn chúng theo, đến chùa tập cho chúng biết quỳ, biết lạy, biết dâng hương hoa, tỏ lòng cung kính đối với đức Phật và chư Tăng, Ni.

Lúc đã lớn: Chừng 13 tuổi trở đi cho đến tuổi đôi mươi, là tuổi đang tìm hiểu, biết tò mò, học hỏi, tham khảo những điều hay lẽ phải. Bậc cha mẹ hãy nên khuyến khích con cái đi chùa, quy hướng Tam bảo, có niềm tin sâu sắc đối với nhân quả, nhờ vậy con cái sẽ biết tránh ác làm lành mà sống đời đạo đức khi lớn khôn, trưởng thành.

Xưa nay chúng ta thường nghe nói đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ mà còn tự do và bình đẳng với hết thảy chúng sinh, cho nên người Phật tử chân chính, tùy theo hoàn cảnh mà cố gắng ứng dụng Phật pháp vào đời nhằm chuyển hóa phiền muộn khổ đau, thành an vui hạnh phúc.

Người Phật tử chân chính trước tiên phải tin rằng, đức Phật là một bậc hoàn toàn giác ngộ giải thoát, những điều Ngài giảng dạy được ghi lại trong kinh điển đều là chân lý, bởi do Ngài tu chứng mà nói ra. Chúng ta tin rằng người tu theo đạo Phật, nếu hành trì đúng theo lời Phật dạy thì sẽ chấm dứt mọi khổ đau, và bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Tóm lại, cha mẹ dạy con khi còn nhỏ từ cách ăn uống, đi đứng, nói năng đều phải theo nguyên tắc kính trên nhường dưới, tin sâu nhân quả, tránh ác làm lành, tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, nhờ vậy con cái khi khôn lớn trưởng thành sẽ biết cách hoàn thiện chính mình.

Bên cạnh mối dây huyết thống giữa cha mẹ và con cái, còn có mối quan hệ chồng vợ, quan hệ anh chị em. Về quan hệ chồng đối với vợ phải yêu thương, tôn trọng và chung thủy, quan tâm chăm sóc chu đáo đời sống vật chất lẫn tinh thần, thường tặng quần áo, trang sức cho vợ. Vợ đối với chồng phải thương yêu, kính trọng và trung thành, quản lý tốt nhà cửa, gìn giữ tài sản, sự nghiệp của chồng.

Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái tức là sự thương yêu trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi đó là tình cảm.

Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng nhận thức và làm tròn bổn phận đối với gia đình và đóng góp, lợi ích thiết thực cho xã hội.

Tình cảm cũng giống như một thứ linh dược quan trọng, nó có thể cảm hóa và thay đổi được mọi thứ, nó là sợi dây gắn kết giữa con người với con người, nó đã làm cho con người thêm gần gũi với nhau, nhờ tình yêu thương chân thật.

Cuộc đời này sẽ không còn giá trị thiết thực, khi con người sống không có tình cảm với nhau. Ta chỉ thương yêu quý mến lo lắng cho nhau thật sự khi nó là của riêng ta. Tình cảm con người được biểu hiện qua tâm lý cảm xúc buồn vui, thương ghét, giận hờn, lo lắng, sợ hãi, ganh tị, tật đố và tham muốn.

Trước hết, hòa theo dòng chảy của thời gian con người với bộn bề công việc, nhiều lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống của ta sao quá nhiều vô vị, chán nản, mệt mỏi, cô đơn và vô cùng tuyệt vọng.

Khi chúng ta ngồi lại để phân tích tìm cảm luyến ái, yêu ghét của con người, ta sẽ thấy rõ ràng đều xuất phát từ sự tham lam ích kỷ do ngu si chấp ngã mà ra. Cái gì làm cho ta thỏa mãn được lòng ham muốn thì sự yêu thích sẽ phát sinh để ta bám víu dính mắc vào đó. Ngược lại, cái gì ngăn cản lòng tham muốn của chúng ta thì sẽ phát sinh ra sự bực tức, nóng giận và dẫn đến thù hằn ghét bỏ.

Chúng ta sống trong cõi đời là để được chia sẻ yêu thương, để mở rộng tấm lòng nhân ái với mọi người. Chỉ có tình yêu thương chân chính mới giúp chúng ta sống gần gũi và biết chia sẻ trong sự cảm thông, bằng trái tim hiểu biết. Thế gian này không một ai sống mà không cần đến tình yêu thương, bởi nó là sợi dây vô hình mầu nhiệm kết nối trái tim lại, làm cho con người được sung sướng và hạnh phúc.  

Thực tế trong cuộc sống chúng ta chỉ thương yêu người đem lợi ích về cho mình và sẽ vắng bóng tình thương khi quyền lợi không còn nữa. Tình yêu nam nữ luôn mang tính chất ích kỷ của sự chấp ngã, vì sự đam mê say đắm thân này.       

Từ ngàn xưa cho đến nay tình ái vẫn là thứ dễ làm cho con người mù quáng và si mê nhất, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi, do đó, rất nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra làm đau lòng nhân thế. Cảnh nhồi da xáo thịt làm mất đi nhân cách của một con người, con giết cha, mẹ giết con, vợ giết chồng rồi kẻ tình địch giết hại lẫn nhau vì ghen tuông vô cớ.

Con người càng ngày làm mất đi giá trị nhân cách do không hiểu biết và nhận thức thiếu sáng suốt, nên dễ dàng gây tạo nhiều tội lỗi và làm khổ đau cho nhau.

Ai cũng có thể biết tình yêu đưa đến hôn nhân nhằm phát triển giống nòi nhân loại và bảo vệ truyền thống gia tộc, nhưng lại là đầu mối của nhiều hệ lụy khổ đau, bởi sự yêu thương trong vị kỷ cho nên nói tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ, đời mất vui khi đã vẹn câu thề.

Thật ra tình dục không phải là chuyện xấu, nó luôn gắn liền với con người từ vô thủy kiếp đến nay. Đã là chúng sinh thì phải ăn, phải ngủ, phải làm việc và thụ hưởng cảm giác khoái lạc.

Con người là một sinh vật cao cấp, hơn hẳn các loài khác về mọi phương diện, nếu biết suy nghĩ, nói năng và hành động hướng thiện bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, thì sẽ giúp ích cho nhân loại sống an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

Ngược lại, vì tình cảm riêng tư muốn chiếm hữu trong sự ganh ghét ích kỷ tham lam sẽ gây khổ đau cho nhau. Chính vì thế, mà loài người luôn đứng ở vị trí cao quý vì biết cách làm chủ bản thân, nếu vì lòng tham cho riêng mình thì cùng hung cực ác, nếu vì lợi ích chung cho nhân loại thì lợi ích cho con người không loài nào bằng.    

Trách nhiệm của chồng đối với vợ

Chồng thương yêu vợ được thể hiện qua năm phương diện sau: Yêu thương tôn trọng vợ trong bình đẳng, không khinh thường vợ, sống trung thành và chung thủy với vợ, giao quyền hạn cho vợ quán xuyến mọi công việc, mua đồ trang sức tặng vợ.

                                “Dù cho vật đổi sao dời

                         Đôi ta vẫn giữ một lòng thủy chung”.   

Tình yêu nam nữ trong hôn nhân là sự tự nguyện đến với nhau, bởi thương yêu nhau, gắn bó nhau, sống không thể thiếu nhau và cùng san sẻ bồi đắp cho nhau. Ca dao Việt Nam có câu: “Đồng vợ đồng chồng, tát biển đông cũng cạn”.

1- Người chồng phải biết thương yêu tôn trọng vợ là chất liệu làm nên hạnh phúc gia đình, do đó người chồng phải biết quan tâm nói những lời khen ngợi, về tài năng và đức hạnh của vợ mình.

Tôn trọng vợ là biết quan tâm, nói những lời khen ngợi về tài năng và đức hạnh của vợ, biết thương yêu và không khinh thường vợ trên tinh thần bình đẳng nam nữ, không nên coi vợ như người đầy tớ muốn mắng chửi, đánh đập lúc nào cũng được, gây ra cảnh bạo hành trong gia đình.

2- Người chồng không nên khinh thường và hà hiếp vợ, nghĩa là biết thương yêu và không nên coi vợ như người giúp việc muốn mắng chửi đánh đập lúc nào cũng được, gây ra cảnh bạo hành trong gia đình, như hiện nay chúng ta đã thường thấy.

3- Người chồng luôn thương yêu quý mến vợ như người bạn và một lòng sống thủy chung, đó là yếu tố chính để bảo vệ hạnh phúc tình yêu lứa đôi. Một gia đình thật sự an vui hạnh phúc là biết san sẻ cho nhau bằng trái tim yêu thương và có hiểu biết.

Chồng luôn thương yêu, quý mến vợ và một lòng sống thủy chung là yếu tố chính để bảo vệ tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Một gia đình hạnh phúc trên thuận dưới hòa không thể có người chồng lăng nhăng, dan díu với người nữ khác.

4- Người chồng phải nên tin tưởng và giao quyền cho vợ, vì người phụ nữ thường quản lý, quán xuyến sắp xếp ổn định việc nhà giỏi hơn đàn ông, do đó chồng phải tin tưởng tuyệt đối giao quyền cho vợ.

Người phụ nữ thường quản lý, quán xuyến, sắp xếp ổn định việc nhà giỏi hơn đàn ông nên chồng phải tin tưởng tuyệt đối, giao quyền cho vợ. Nếu người chồng so đo, ích kỷ, hẹp hòi, đưa tiền cho vợ từng bữa thì chẳng khác nào xem vợ như người giúp việc.

5- Người chồng hãy nên hâm nóng lại tình yêu bằng cách mua đồ trang sức tặng cho vợ mình, nhân sinh nhật kỷ niệm ngày cưới. Thích làm đẹp và mang đồ trang sức đó là sở thích của người phụ nữ. Việc quan tâm tặng quà cho vợ để nhắc lại những kỷ niệm đẹp thời hai đứa mới yêu nhau, làm cho người nữ tăng thêm phần hạnh phúc hơn.

Lúc mới quen nhau người nam thường tặng quà cho người nữ để lấy lòng, khi đã chính thức nên duyên thì ít quan tâm đến cảm xúc hay vấn đề tặng quà cho vợ vì nghĩ nàng đã thuộc về mình.

Thích làm đẹp và mang đồ trang sức là sở thích của người nữ, việc quan tâm tặng quà cho vợ để nhắc lại những kỷ niệm đẹp thời hai đứa mới yêu nhau làm cho người nữ tăng thêm phần hạnh phúc, là cách thức hâm nóng lại tình yêu để phụ nữ tăng thêm nghị lực sống, cố gắng vượt qua những gian nan, khó khăn mà họ phải gánh lấy một mình khi làm vợ. Việc mua đồ trang sức tặng cho vợ là thể hiện mẫu người chồng lý tưởng, giúp cho tình nghĩa vợ chồng luôn được đẹp mãi theo thời gian.

Theo quan niệm ngày xưa, người chồng là lao động chính trong gia đình, người vợ lo việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái, lo chu toàn mọi việc trong nhà. Thời đại ngày nay cả chồng lẫn vợ đều cùng làm việc như nhau, nếu chồng đi làm về mở ti vi xem hoặc nằm phè ra nghỉ, để vợ một mình lo việc cơm nước là không hợp lý, người chồng phải biết chia sẻ, gánh vác cùng vợ.

Khi chồng nóng giận nặng lời thì vợ phải biết nhẫn nhịn và tìm cách lựa lời khuyên nhủ, hoặc khi chồng khuyên bảo hay chỉ dạy điều gì thì vợ phải biết lắng nghe.

Bổn phận vợ đối với chồng như sau:

1- Người vợ luôn một lòng chung thủy với chồng để được sống yêu thương và hiểu biết.

2- Quán xuyến và xử lý việc nhà một cách tốt đẹp.

3- Gần gũi, đối đãi tốt với họ hàng thân thuộc, khách khứa và những người giúp việc thay chồng.

4- Biết chi tiêu mua sắm đúng mức và gìn giữ tiền bạc tài sản cho gia đình.

5- Luôn chu toàn tốt đẹp trong mọi công việc.

Chung thủy và biết nhường nhịn, cảm thông và biết tha thứ cho nhau là bí quyết dẫn đến hạnh phúc gia đình dài lâu. Thành thật là một đức tính tốt đẹp luôn giúp vợ chồng biết thương yêu, tin tưởng lẫn nhau. Chồng không gian dối vợ, vợ luôn trung thực, thật thà với chồng nên không có sự nghi ngờ.

Khi mới quen nhau còn trong giai đoạn tìm hiểu ai cũng muốn làm đẹp lòng người yêu nên bằng mọi cách thể hiện những đức tính tốt đẹp, đến khi lấy nhau bắt đầu thói quen xấu lộ ra, nếu không biết cảm thông và tha thứ cho nhau thì dễ dàng dẫn đến mâu thuẫn, gây gổ, cãi vã, trách móc lẫn nhau. Nhẹ thì gia đình xào xáo, nặng thì dẫn đến ly dị, ly hôn.

Muốn giữ vững hạnh phúc gia đình vợ chồng phải đồng phát tâm cùng hướng về con đường thiện, hãy nói không với các việc xấu ác và hãy siêng năng làm những việc thiện lành. Chồng phải biết thương yêu, quý kính, tôn trọng vợ, đó là chất liệu làm nên hạnh phúc gia đình.

Người vợ phải luôn một lòng thương yêu, quý kính, thủy chung với chồng để giữ mãi kỷ niệm đẹp về tình yêu. Biết quán xuyến và xử lý việc nhà một cách tốt đẹp, đối đãi tốt với họ hàng thân thuộc, khách khứa và những người giúp việc thay chồng.

Người vợ phải biết chi tiêu, mua sắm đúng mức và gìn giữ tiền bạc, tài sản cho gia đình; cẩn thận, siêng năng, tháo vát, vuông tròn trong mọi công việc. Nhờ những yếu tố tích cực trên mà vợ chồng sống với nhau bền lâu  cho đến ngày răng long tóc bạc.

Ngoài ra đối với bà con hai họ, hai vợ chồng phải biết cung kính tôn trọng người lớn, an ủi giúp đỡ kẻ nhỏ và sẵn sàng san sẻ mỗi khi có việc cần thiết. Đối với xã hội, gia đình là nền tảng làm nên cuộc sống. Một gia đình luôn biết sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết, là nhân tố tích cực đem lại an vui, hạnh phúc và lợi ích cho xã hội.

Tóm lại, muốn cho tình nghĩa vợ chồng được hạnh phúc dài lâu thì chúng ta phải biết thương yêu nhau, sống thủy chung, tôn trọng, thành thật, biết thông cảm và tha thứ cho nhau….. Đây chính là những điểm then chốt làm nên hạnh phúc gia đình của người cư sĩ tại gia, mà ai cũng cần phải biết để áp dụng và thực hành.

Phật dạy người cư sĩ tại gia có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng phải thủy chung một chồng một vợ, không được dan díu và quan hệ bất chính với vợ chồng người khác. Ngoại tình là nguyên nhân dẫn đến ghen tuông vô cớ và phá hoại hạnh phúc gia đình người khác.

Trong tình yêu ghen tuông luôn gắn liền với ích kỷ và nó là trạng thái tâm lý không thể tách rời nhau, có yêu thương là có ghen ghét. Bao nhiêu vụ án xảy ra làm đau lòng nhân thế với những cái chết thật đáng tiếc và vô lý làm sao, chỉ vì ghen tuông trong mù quáng. Bởi vì chúng ta yêu thương trong sự lợi dụng lẫn nhau, mà không có tình yêu thương chân thật, nên dẫn đến hẹp hòi, ích kỷ làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.

Trong tình ái do bảo vệ cái ta ích kỷ hoặc ghen tuông vô cớ, dễ làm con người mù quáng gây nhiều đau khổ cho nhau. Tình yêu bản chất vốn không xấu xa tội lỗi, ai cũng muốn mình được an vui hạnh phúc trong đời sống lứa đôi, nhưng vì chúng ta không có sự hy sinh và chia sẻ cho nhau, ta không biết bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, vì sự tham lam ích kỷ của ta.

Ai thương yêu và giúp đỡ ta, ta sẽ quý mến họ. Ai làm hại ta, ta sẽ thù ghét họ. Đó là quy luật tất yếu của thế gian mà ít người vượt qua nỗi. Một khi giữa hai người không đáp ứng được nhu cầu cho nhau, từ đó vợ chồng bị sức mẻ rạn nức dẫn đến gây gổ cãi vả và việc bạo hành sẽ xảy ra, cuối cùng dẫn đến đổ vở hạnh phúc vì trong họ không có tình yêu thương chân thật.  

Quan niệm về tình yêu, hôn nhân vợ chồng sống với nhau vừa có tình, vừa có nghĩa, trong mối quan hệ vợ chồng phải có tình yêu, tình bạn tri kỷ, phải có sự tôn trọng lẫn nhau và có trách nhiệm, bổn phận trong việc sẻ chia niềm vui hay nỗi buồn.

Những đổ vỡ, trong đời sống gia đình dẫn đến mất hạnh phúc, tình trạng ly dị, ly thân, ngoại tình, gây ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội, đã khiến cho người ta xem xét lại và tìm thấy những giá trị tích cực lời Phật dạy trong hôn nhân tình yêu.

Sợi dây kết hợp vợ chồng là ân ái. Nhưng chúng ta ân ái phải có hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục thì mới bảo đảm hạnh phúc lâu dài. Tình yêu lứa đôi, luôn đóng vai trò thiết yếu quan trọng trong cuộc sống và thế giới loài người sở dĩ tồn tại và phát triển nhờ loại tình yêu mãnh liệt này.

Chúng ta vì muốn bảo vệ tình yêu cho riêng mình trong sự ích kỷ, nên mới phát sinh ra các thứ tình cảm như yêu ghét, buồn vui, thương giận và lo lắng. Tình ở đây nói chung gọi là tình người trong cuộc sống như tình cha mẹ, tình chồng vợ, tình anh em, tình bè bạn, tình làng nghĩa xóm, tình yêu, tình nhân loại v..v…

Vì cái tình đó, cho nên con người sinh ra luyến ái, mến thương, yêu thích và luôn gắn bó với nhau nhiều hơn. Chính vì nhìn thấy được bản chất thật của tình cảm con người rất phức tạp và phiền toái, nên các bậc Thánh nhân thường hay khuyên nhủ mọi người hãy nên tu tập tâm từ bi để mở rộng tấm lòng rộng lớn bằng tình yêu thương chân thật không vị kỷ.

Tình cảm con người thật sự bao la không ngần mé, phải được xuất phát từ tình yêu thương chân thật bằng trái tim hiểu biết nên dễ cảm thông và tha thứ cho nhau. Trong tình yêu ngoài sự quan hệ tình dục ra, chúng ta còn có trách nhiệm bổn phận đối với việc nuôi dạy con cái. Cho nên trong tình yêu cần có sự hy sinh, bao dung và độ lượng, nâng đỡ và sẻ chia, rồi còn phải tha thứ và cảm thông cho nhau.

Tình yêu chân thật là phương thuốc tinh thần mầu nhiệm xoa dịu các nỗi đau bất hạnh, để chúng ta vững vàng vượt qua những phiền muộn khổ đau của cuộc đời. Để khám phá ra ý nghĩa cho cuộc đời của mình, và để sống cho những điều mà chúng ta cho là ý nghĩa nhất phù hợp với lòng người.

 

PHẬT DẠY MỐI QUAN HỆ GIỮA THẦY VÀ TRÒ
Giáo lý nhà Phật và đạo lý làm người đều tán dương mối liên hệ thầy trò qua sự biết ơn, để mỗi người chúng ta hình thành nhân cách sống. Mỗi con người hiện hữu ở đời đều do cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng, nhưng sự trưởng thành, lớn khôn, hòa nhập vào cộng đồng xã hội để làm thành cho nhau đều nhờ công ơn giáo dưỡng của thầy cô. Thế nên, bổn phận của người học trò luôn ý thức tôn kính thờ thầy mà mọi người thường gọi là: “Tôn Sư trọng đạo”.

1- Rèn luyện cho học trò theo những đức tính mà mình có.

2- Dạy cho học trò giữ gìn và nhớ kỹ điều cần thiết.

3- Dạy cho học trò nắm vững nghề nghiệp đến mức thuần thục.

4- Khen học trò đối với bạn bè quen biết.

5- Đảm bảo nghề nghiệp cho học trò trên mọi mặt.

Trong các mối quan hệ của cuộc sống thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng nhằm mở mang kiến thức hiểu biết, nâng cao trình độ về nhận thức, để sống có nhân cách đạo đức với mọi người. Do đó, người thầy trở thành bậc mô phạm giữa đời, là tấm gương sáng để người học trò học hỏi và ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Người thầy ngoài trách nhiệm trao truyền kiến thức đến người học trò mà còn chỉ dạy họ biết thực hành qua ý nghĩ, lời nói và hành động tốt đẹp. Đây chính là bước đi đầu tiên mà người học trò cần rèn luyện để trưởng thành với những đức tính tốt đẹp, đức Phật là vị thầy mô phạm ở đời, giúp cho nhân loại biết cách hoàn thiện chính mình.

Thế nên, đức Phật giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán để cho mọi người biết cách làm chủ bản thân, vượt qua biển khổ sông mê do dính mắc vào tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp và ngũ nghỉ thoải mái.

Trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là mối quan hệ giữa thầy và trò, có một mối quan hệ mật thiết, để tạo nên nền tảng sống tốt đẹp trong hiện tại và mai sau. “Tôn sư trọng đạo” là một nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, các thế hệ người Việt qua mối quan hệ thầy và trò luôn được mọi người quan tâm đặc biệt, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cá nhân, gia đình và xã hội.

Người thầy ngoài việc chỉ dạy kiến thức, mà còn hướng dẫn về đạo làm người, truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc Việt Nam, được đất nước ta quan tâm, khích lệ. Một người thầy chuẩn mực đạo đức đều phải có cái tâm chân thật. Cái tâm của người thầy chính là thể hiện nhân cách sống đạo đức, thấm nhuần đạo lý nhân quả qua sự chỉ dạy cho học trò vì lợi ích của cộng đồng xã hội.

Ngược lại, học trò phải luôn một mực kính trọng người thầy của mình và biết lắng nghe lời thầy chỉ dạy. Người học trò cần phải học tập theo tấm gương đạo đức của thầy, cố gắng rèn luyện trau dồi, nhân cách sống cho phù hợp với đạo lý làm người.

Tình nghĩa thầy trò là một trong những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp mà hầu hết mọi người đều trân quý, cung kính báo ơn và khiêm tốn đối với những người quan tâm chỉ dạy mình.

Trong kinh Phật dạy về cách ứng xử giữa thầy và trò qua năm điều thờ kính, phụng dưỡng thầy. Năm điều đó là gì? Một là khéo cung kính vâng lời. Hai là khéo chăm sóc giúp đỡ, hầu hạ thầy mỗi khi cần thiết. Ba là hăng hái nhiệt tình. Bốn là nghề nghiệp giỏi. Năm là hay thờ kính thầy.

Ngược lại, thầy cũng dùng năm việc săn sóc đệ tử. Năm việc đó là gì? Một là dạy cho nên nghề. Hai là nhiệt tình dạy dỗ. Ba là dạy hết những điều mình biết. Bốn là hướng học trò đến chỗ lành. Năm là gửi gắm bậc thiện tri thức. Phật đã chỉ dạy năm bổn phận căn bản của người học trò đối với thầy, biểu lộ rõ tinh thần “tôn sư trọng đạo”.

Trong thời đại văn minh vật chất ngày hôm nay, tình nghĩa thầy trò hầu như thiếu sự gắn bó. Giữa thầy và học trò có một khoảng cách khá xa, không thân tình và gần gũi như ngày xưa. Bởi vì xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu cho cuộc sống lại cao hơn nên ít có thời gian thầy trò gắn bó, mật thiết với nhau do bộn bề công việc.

Mối quan hệ giữa thầy và trò, trong các truyền thống tâm linh cũng có khi rời rạc không gắn bó như thời xa xưa. Do đó người học trò rất dễ bị yếu kém về phẩm chất đạo đức, vì ít gần gũi để học hỏi kinh nghiệm quý báu từ lời dạy của thầy. Chính vì vậy, cơ hội thầy trò ngồi lại bên nhau để cùng chia sẻ kinh nghiệm, nhằm tháo gỡ những khó khăn đang còn bị vướng mắc mà biết cách hoàn thiện chính mình.

Người học trò khi được tiếp xúc với thầy, việc trước tiên là chúng ta cần phải học hỏi đạo lý để có niềm tin sâu sắc về nhân quả và có nhận thức sáng suốt hơn, trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Việc trao truyền tri thức và đạo lý cho thế hệ kế thừa là trách nhiệm của  thầy phải biết hướng dẫn đệ tử có nghề nghiệp vững chắc, sống có hiểu biết chân chính để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Quan trọng nhất, người thầy phải biết rõ khả năng của từng học trò để dạy dỗ. Chính vì vậy, mỗi ý nghĩ, lời nói và hành động của thầy đều là bài học thiết thực về thân giáo, giúp học trò dễ dàng tiếp nối sự nghiệp đạo đức trí tuệ của thầy.

Người học trò đến với thầy cần phải chú tâm lắng nghe và tiếp nhận những điều thầy chỉ dạy. Khi chúng ta hiểu rõ được những lời dạy tâm huyết của thầy thì mỗi ý nghĩ, lời nói và hành động của ta, sẽ thể hiện tốt đạo đẹp đời qua mối quan hệ thầy trò.

Tuy nhiên chúng ta cần phải siêng năng hăng hái trong học tập, dù khó cách mấy cũng quyết tâm học cho đến nơi, đến chốn không bỏ cuộc nữa chừng. Đến khi thành tài, người học trò phải biết tôn trọng kính thờ thầy hết lòng. Ngày xưa, thầy được xếp trên cả cha mẹ, nếu chúng ta không kính trọng thầy, dù ở bất cứ hình thức nào, thì người học trò ấy chưa làm tròn bổn phận đối với thầy.

Người thầy có tâm và trách nhiệm thì sau khi dạy dỗ học trò thành tài, cần phải giới thiệu chỗ làm tốt và mở mang phát triển cơ sở mới. Một mặt để học trò có cơ hội trả ơn bằng cách dấn thân và đóng góp sự nghiệp trồng người được hoàn thiện về mọi mặt. Nhất là, khi phát hiện được tài năng của học trò, vị thầy cần gửi học trò đến các bậc thiện tri thức để tham học và được đào tạo thành các bậc hiền tài đức độ. Được như vậy, vị thầy mới làm tròn trách nhiệm của mình trong sự nghiệp trồng người cả hai mặt phước đức vẹn toàn.

Thực tế cho thấy, vai trò và trách nhiệm của những thầy cô giáo ở ngoài đời đã khó, huống gì làm bậc thầy mô phạm tâm linh lại càng phải khó hơn nhiều vì phải đi ngược lại dòng đời, nhưng không xa rời cuộc sống. Từ cách thức đi đứng, ăn nói và giao tiếp ứng xử phải luôn thể hiện sự an nhiên tự tại, để làm nơi nương tựa cho người học về sau.

Thực ra, tâm nguyện các bậc làm thầy đạo đức chân chính, luôn mong muốn dạy cho học trò mình mau thành nghề và không giấu nghề, cố gắng truyền trao hết cho đệ tử.

Để tình nghĩa thầy trò được gắn bó, thân thương và trong sáng, nhằm đem lại hoa trái tốt đẹp làm lợi ích cho cuộc đời, thì đòi hỏi tâm ý người dạy cũng như kẻ học, phải thực sự có tình thương yêu chân thật.

Sự thành công của người học trò sẽ là niềm khích lệ lớn lao đối với người thầy, vị thầy sẽ biết cách tán dương khen ngợi đúng lúc, để động viên an ủi người học trò của mình đạt được mục đích cao quý.

Người thầy có nhiệm vụ hướng cho người học sau khi thành thạo chuyên môn, phải có ý thức thăng tiến để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực nào đó mà bản thân họ được đào tạo. Tính chuyên môn cao sẽ tạo ra tính bền vững, phát triển lâu dài trong nghề nghiệp.

Mối quan hệ giữa trò đối với thầy

1- Chào thầy khi thầy đến.

2- Hầu hạ, săn sóc thầy.

3- Hăng hái học tập thầy.

4- Tự mình giúp đỡ thầy.

5- Phát huy trau dồi nghề nghiệp mà thầy trao truyền cho mình.

Sự thể hiện lòng tôn kính khi gặp thầy và chào thầy, chính là hình ảnh người học trò biết tôn kính thầy trong mọi lúc mọi nơi. Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” luôn nhắc nhỡ chúng ta biết báo ơn và đền ơn. Thầy phải tạo dấu ấn lớn trong tâm thức người học trò, trên mọi phương diện và ngược lại người trò phải hết sức tôn kính thầy, nhờ vậy mới tiếp thu hết những lời chỉ dạy của thầy, mà biết cách ứng dụng vào cuộc đời.

Kế đến, việc săn sóc thầy như là một trách nhiệm thiêng liêng qua việc “tôn sư trọng đạo”. Việc hầu hạ, săn sóc thầy mỗi khi cần thiết đã trở thành một công việc tự nguyện của người học trò.

Tóm lại, trong các mối quan hệ cuộc sống, mối quan hệ giữa thầy và trò, là mối quan hệ mật thiết tạo nên giềng mối đạo đức, nhằm giúp gia đình người thân và xã hội, đảm bảo an sinh đời sống tốt đẹp bền vững và lâu dài.

Ân thầy bạn: giúp ta mở rộng kiến thức, thầy dạy cho ta biết đọc, biết viết, biết ăn ở hiền lành phải đạo làm người, biết những điều hay lẽ phải, cốt để làm cho mình trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Cho nên ngạn ngữ có câu: ”Không thầy đố mầy làm nên“.

Chẳng những thầy dạy cho ta hiểu biết mà còn dạy cho ta biết nghiệm xét, suy tư quán chiếu làm cho trí tuệ phát sinh, để chúng ta có thể thấy biết đúng như thật, mọi vấn đề của sự sống.

Nhờ có thầy luôn khuyến khích, nhắc nhỡ, chỉ dạy, chính vì vậy mà chúng ta được động viên an ủi khi buồn vui, giúp ta vượt qua mọi chướng duyên nghịch cảnh để làm mới lại chính mình bằng trái tim thương yêu và hiểu biết.

Ân cha mẹ: Người con hiếu thảo là hết lòng cung kính và dưỡng nuôi cha mẹ dù bất cứ hoàn cảnh nào, cũng không nệ hà hay phiền trách. Ai luôn biết hiếu dưỡng với cha mẹ là người sống có nhân cách đạo đức, nên dễ thành công trên đường đời. Nếu chúng ta chỉ nuôi dưỡng cho cha mẹ bằng vật chất thì gọi là hiếu thế gian, còn những ai biết hướng dẫn cha mẹ quy hướng về Phật pháp, tin sâu nhân quả, tránh dữ làm lành là hiếu dưỡng cao thượng. 

Nếu nói về hiếu gồm có 4 phương diện: hiếu dưỡng, hiếu tâm, hiếu hạnh và hiếu đạo. 

Hiếu dưỡng: Nghĩa là cung kính dưỡng nuôi cha mẹ đầy đủ về phương diện vật chất từ thức ăn uống, chỗ ở cho đến thuốc thang mỗi khi bệnh hoạn hay những lúc già yếu. Người Phật tử chân chính nếu biết cúng dường Tam Bảo, làm từ thiện để giúp đỡ người khác thì trước tiên phải biết cung kính hiếu thảo với cha mẹ mình. 

Hiếu tâm: Cung cấp và dưỡng nuôi cho cha mẹ là trách nhiệm và bổn phận của con cái. Tuy nhiên, không ít trường hợp người con báo hiếu cha mẹ không thật lòng, chẳng qua là vì hoàn cảnh bắt buộc. Cho nên, con cái cung kính hiếu thảo với cha mẹ, một lòng mong muốn cha mẹ được an vui, hạnh phúc gọi là hiếu tâm. 

Hiếu hạnh: Báo hiếu nghĩa là một trách nhiệm thiêng liêng và cao quý của con cái, báo hiếu là truyền thống tốt đẹp, là một nếp sống đạo đức được truyền thừa lại cho con cháu. Nếu nói cho đúng nghĩa, báo hiếu là việc làm của người giác ngộ, của các vị Bồ-tát. Chính vì vậy, ai đã làm người phải xem việc báo hiếu là một nghĩa vụ thiêng liêng của đời mình. 

Hiếu đạo: Con người ở đời nhờ ơn cha mẹ mà lớn lên, cho nên đạo lý làm người là phải biết nhớ ơn và đền trả công đức sinh thành của bậc song thân. Đây là đạo lý nền tảng giúp cho mọi người sống phải có ý thức trách nhiệm, về mọi hành vi đạo đức ở đời nhằm thăng hoa cuộc sống mà hoàn thiện chính mình, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. 

Một người con dù trai hay gái, phải biết báo đáp công ơn sanh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Việc báo hiếu đó phải thực hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần. 

Báo hiếu phương diện vật chất: Những điều cần thiết mà người con cần phải phụng dưỡng cha mẹ là thức ăn, đồ mặc, chỗ ở, thuốc men, giải trí. Đặc biệt khi cha mẹ già yếu mất sức lao động thì con cái phải có trách nhiệm dưỡng nuôi cha mẹ. Tuy nhiên, việc làm ra của cải vật chất để phụng dưỡng cha mẹ bằng đôi bàn tay và khối óc của mình một cách lương thiện. Trong kinh Phật dạy: “Người con vì cha mẹ mà làm các điều xấc ác để báo hiếu cho cha mẹ, người ấy sẽ bị đọa lạc vào chỗ thấp kém. 

Báo hiếu phương diện tinh thần: Theo đạo Phật, báo hiếu về phương diện tinh thần không chỉ đơn thuần là làm cho cha mẹ luôn được vui vẻ, hạnh phúc, mà còn phải hướng cha mẹ tin sâu nhân quả, dứt ác làm lành, biết buông xả và sống đời bình yên, hạnh phúc. 

Tóm lại, con người dù ở địa vị giàu sang hay nghèo khó, dù đẹp đẽ hay xấu xí, dù thông minh hay ngu dốt… tất cả đều nhờ vào công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Do đó, bổn phận làm con phải biết nhớ tưởng và báo đáp công ơn cha mẹ bất cứ hoàn cảnh nào. Như chúng ta đã biết, nền tảng đạo đức con người được xây dựng trên tinh thần của lòng biết ơn và đền ơn. 

Ân thầy bạn: giúp ta mở rộng kiến thức, thầy dạy cho ta biết đọc, biết viết, biết ăn ở hiền lành phải đạo làm người, biết những điều hay lẽ phải, cốt để làm cho mình trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Cho nên ngạn ngữ có câu: ”Không thầy đố mầy làm nên“. 

Chẳng những thầy dạy cho ta hiểu biết mà còn dạy cho ta biết nghiệm xét, suy tư quán chiếu làm cho trí tuệ phát sinh, để chúng ta có thể thấy biết đúng như thật, mọi vấn đề của sự sống. 

Nhờ có thầy luôn khuyến khích, nhắc nhỡ, chỉ dạy, chính vì vậy mà chúng ta được động viên an ủi khi buồn vui, giúp ta vượt qua mọi chướng duyên nghịch cảnh để làm mới lại chính mình bằng trái tim thương yêu và hiểu biết. 

Ân Tam bảo: Đối với Phật-Pháp-Tăng là ba ngôi quý báu, hiếm có khó được nên người Phật tử có những trọng ân như sau: 

Ân Phật Bảo: Khổ đau của chúng sinh do già bệnh chết chi phối, làm cho người ta phải tái sinh luân hồi sống chết không có ngày thôi dứt, khi thì hưởng phước báu cõi trời người, khi thì bị đọa ba đường ác địa ngục, quỷ đói, súc sinh. Bồ-tát Sĩ Đạt Ta đã tìm ra con đường giải thoát mọi ràng buộc khổ đau đó, bằng sự tu chứng của chính mình, là người Phật tử chân chính chúng ta phải nhớ đến ân đức của Ngài: 

Ai đã làm được như Phật? Ngài đã dám lìa bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, bỏ thần dân thiên hạ để đi tìm con đường giác ngộ, giải thoát hoàn toàn giúp cho mình và người, biết cách thoát ra khỏi khổ đau sinh, già, bệnh, chết. 

Trước khi thành đạo đức Phật đã năm năm tu với hai vị thiền sư nỗi tiếng thời bấy giờ nhưng không đạt được mục đích giác ngộ, giải thoát nên Ngài từ giã ra đi. Rồi Ngài tự tu sáu năm khổ hạnh nơi rừng già cùng với nhóm ông Kiều Trần Như, nhịn đói, chịu rét trong chốn rừng già hiu quạnh, thậm chí có ngày chỉ ăn một hạt mè hay hạt bắp. 

Thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh: Sau khi từ bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan, Ngài quay trở về lối tu trung đạo, không lợi dưỡng, không ép xác, ăn vừa đủ no ngày một bữa, tham thiền và chứng đắc Phật quả chấm dứt khổ đau sống chết. Ngài thấy chúng sinh trôi lăn trong ba cõi sáu đường đều do mình tạo ra, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, không ai có khả năng ban phước hay giáng họa! Ngài đem chân lý do tu chứng và thấy biết đúng như thật, chỉ dạy lại cho mọi người tu tập để được giải thoát luân hồi sinh tử. 

Ân Pháp bảo: Nhờ có kinh điển lưu truyền đến ngày nay chúng ta mới biết giáo lý của đạo Phật, do đó Pháp bảo chỉ cho chúng ta hiểu được cuộc đời là vô thường giả tạm, bởi yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý khổ và vô vàn nỗi khổ niềm đau khác. 

Chỉ dạy phương pháp tu học: Người xuất gia muốn giác ngộ, giải thoát xa lìa sinh tử Phật chỉ dạy pháp tứ Thánh đế diệt khổ, pháp tu thành Phật. Người tại gia do còn gia đình người thân nên Phật dạy quy hướng Tam bảo, giữ năm giới, tu mười điều thiện, hành Bồ-tát đạo cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi. 

Bình đẳng tu chứng: Đức Phật trước kia là một con người lịch sử giống như tất cả mọi người chúng ta, Ngài cũng được sinh ra từ bụng mẹ, vẫn hưởng thụ ngũ dục như mọi người, nhưng do quyết tâm lìa bỏ nên đã tu chứng thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta cũng là con người, nếu cố gắng buông xả hết mọi vọng niệm và gieo trồng phước đức đầy đủ, thì cũng sẽ có ngày thành Phật viên mãn. 

Để tạo sự an lạc cho tất cả mọi người, đem lại hòa bình cho thế giới, Phật dạy chúng ta hãy tin sâu nhân quả, tránh dữ làm lành, phát triển tâm từ bi rộng lớn thương yêu bình đẳng, không phân biệt người thân hay kẻ thù. 

Ân Tăng bảo: Tăng là những người đã lìa bỏ gia đình, là đoàn thể sống an vui hạnh phúc, vừa học, vừa tu, vừa dấn thân truyền bá giáo lý Phật đà nên ân này rất to lớn. 

Duy trì chánh pháp: Những vị Tăng tu hành giữ gìn giới luật tinh nghiêm, từ bỏ ngũ dục lạc thế gian để sống đời đơn giản đạm bạc, muốn ít biết đủ và từ bi trí tuệ làm cho giáo lý Phật đà tồn tại ở thế gian, nhờ đó chúng ta mới biết đạo Phật, biết phương pháp tu học giác ngộ, giải thoát. 

Thay Phật hóa độ chúng sinh: Tăng là những vị có nhiệm vụ truyền trì Phật pháp, đem giáo lý nhân quả làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, do mình là chủ nhân của bao điều họa phúc và kế thừa sự nghiệp đức Phật để giáo hóa cho mọi người tu học. 

Truyền trao giới pháp: Chúng ta muốn phát tâm cầu học đạo từ bi và trí tuệ trước tiên phải quy y Tam Bảo, phát nguyện giữ từ một giới cho đến khi nào giữ tròn năm giới viên mãn, chính những vị Tăng sẽ thay Phật truyền trao giới pháp này, giúp cho chúng ta tu học bền vững và lâu dài. 

Ngoài những ân như cha mẹ, ân thầy tổ, ân Tam bảo, còn có một ân nữa là ân quốc gia xã hội. 

Ân Quốc gia xã hội: Chúng ta sống trong một đất nước, sống yên ổn, ấm no và hạnh phúc, không bị chiến tranh là nhờ quốc gia và xã hội góp phần duy trì và gìn giữ, cho nên chúng ta đã thọ những ân nghĩa như sau: 

Làm tròn bổn phận công dân: Trước tiên là một công dân là phải đóng góp vào việc giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, sự độc lập của quốc gia, dân tộc, góp phần bảo vệ các quyền lợi chánh đáng của người dân. Phát huy sáng tạo kỹ nghệ, kinh doanh thương mại làm cho đất nước ngày càng phát triển hưng thịnh, bền vững và lâu dài. 

Phát huy văn hóa và bảo vệ những truyền thống tốt đẹp dân tộc: Người Phật tử cũng là một công dân, có bổn phận gìn giữ phát huy nền văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, một đất nước có trên bốn ngàn năm lịch sử văn hiến, và lấy đạo thờ ông bà tổ tiên làm nền tảng, kết hợp với tâm linh Phật giáo để duy trì di sản văn hóa ông cha ta để lại, chúng ta cần phải gìn giữ và phát huy thêm những truyền thống tốt đẹp đó. 

Những truyền thống tốt đẹp đó, như thời cực thịnh của Phật giáo đời Trần đã 3 lần đánh đuổi quân xâm lược Mông Cổ, 1000 năm không bị đồng hóa và lệ thuộc nước Tàu, cùng với 100 năm Pháp thuộc, người Việt Nam luôn nêu cao tinh thần dân tộc, giữ gìn biên cương bờ cõi, bảo toàn độc lập và giữ trọn vẹn bản sắc văn hóa tốt đẹp con Rồng cháu Tiên. 

Giữ vẹn biên cương bờ cõi, bảo toàn độc lập: Nhờ có quốc gia giữ gìn, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và bảo toàn sự trọn vẹn về độc lập. Một đất nước nếu bị mất chủ quyền, mất độc lập thì dân chúng sẽ bị sưu cao, thuế nặng, làm lụng vất vả mà không có quyền bình đẳng về con người. 

Nhờ sự đồng lòng tích cực của toàn dân mỗi người đều có trách nhiệm công ăn việc làm riêng, hòa hợp trở lại để cùng đảm bảo an sinh đời sống cho tất cả mọi người. Một người dù có tài giỏi đến đâu, cũng không thể nào làm đủ những nhu cầu cần thiết cho chính bản thân mình tiêu dùng trong ăn, mặc, ngũ nghĩ và làm việc. 

Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm gạo ăn, ta không nuôi tằm dệt vải nhưng vẫn có quần áo để mặc, rồi tất cả những nhu cầu khác cũng lại như thế, chúng ta đều nương nhờ lẫn nhau để bảo tồn mạng sống. Xã hội đã phân công cho mỗi người một nghề, một trách nhiệm để làm một công việc nhằm đáp ứng các nhu cầu cần thiết để cho con người, đảm bảo an sinh đời sống tốt đẹp. 

Tóm lại, vâng theo Phật dạy tất cả chư Tăng, Ni là những người có nhiệm vụ quan trọng và cao cả, kế thừa sự nghiệp duy trì chánh pháp được lưu bố rộng khắp nhân gian, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho tất cả mọi người dứt ác làm lành để sống đời bình yên, hạnh phúc. 

Còn người Phật tử tại gia, có trách nhiệm hộ trì Tam bảo được trường tồn ở thế gian này, để giúp cho chư Tăng, Ni có thời gian tu học đến nơi đến chốn để dấn thân đóng góp từ thiện và giáo dục tâm linh, với tinh thần “tốt đạo đẹp đời”. Chúng ta tu học theo hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm luôn  đồng hành, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, đem niềm vui đến với mọi người và sẵn sàng san sẻ nỗi khổ niềm đau, với tấm lòng vô ngã, vị tha.

 

PHẬT DẠY TRÁCH NHIỆM NGƯỜI TẠI GIA

Phật tử là những người tu hành theo Phật là người cư sĩ tại gia, học hạnh từ bi và trí tuệ để được giác ngộ, giải thoát. Nghe theo sự hướng dẫn của chư Tăng, Ni các bậc hiền Thánh để nuôi dưỡng tâm từ bi và trí tuệ, hầu mong trở thành người Phật tử chân chính, biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, biết làm lành tránh dữ, luôn giữ tâm ý trong sạch.

Trong cuộc sống mọi người công dân đều có bổn phận đối với quốc gia, xã hội, cha mẹ có bổn phận và trách nhiệm đối với con cái, vợ chồng có bổn phận trách nhiệm thương yêu đùm bọc, san sẻ cho nhau, con cái biết quan tâm hiếu dưỡng cha mẹ, con người quan hệ giao dịch làm ăn qua lại theo nguyên lý nhân duyên quả, để được tồn tại và duy trì sự sống.

Người Phật tử là người biết tu học thực tập theo hạnh giác ngộ, giải thoát cho chính mình, do đó người Phật tử chân chính là người biết cách làm chủ bản thân, không bị các tham muốn dục vọng thấp hèn chi phối. Chúng ta là người học Phật phải dám chiụ trách nhiệm về những ý nghĩ, lời nói và hành động mình đã làm.

Người Phật tử chân chính là người phải xây dựng cho mình một ý chí và nghị lực mạnh mẽ, sống trong môi trường xã hội nhưng luôn biết cách tu dưỡng bản thân để ngày càng hoàn thiện chính mình hơn.

Trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, khả năng làm chủ bản thân của con người trở nên mong manh vì bị kẹt trong hệ lụy kinh tế xã hội... và các sự ràng buộc khác trong đời sống, muốn thoát ra khỏi dòng đời oan trái, là cả một sự khó khăn vô cùng, mà người thiếu ý chí, không có niềm tin về nhân quả khó có thể làm được. Vậy,

Bổn phận của người tại gia là những gì?  

Đã làm người, ai cũng có trách nhiệm và bổn phận liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau để bảo tồn sự sống. Phật là bậc đại giác ngộ hoàn toàn, đã chứng được tam minh lục thông nhờ siêng năng tu trì từ bi và trí tuệ và công hạnh độ sinh nhiều đời không biết mệt mỏi, nhàm chán.

Phật đã thấy rõ chúng sinh thăng lên lộn xuống trong ba cõi sáu đường do mình tạo ra, mình làm lành, được hưởng phước báo cõi trời, người; mình làm ác chịu quả khổ đau ba đường dưới địa ngục, quỷ đói, súc sinh không ai có quyền ban phước giáng họa cho ta cả.

Chúng ta muốn làm người Phật tử chân chính, tất phải nghe những lời Phật  dạy, rồi suy gẫm quán chiếu và làm theo những việc Phật đã làm, đi theo con đường Phật đã đi. Do đó, người Phật tử tại gia, có những trách nhiệm và bổn phận như sau:  

1-Bổn phận đối với chính mình.

2-Bổn phận đối với gia đình, người thân.

3-Bổn phận đối với cộng đồng xã hội.  

a- Bổn phận đối với chính mình   

Ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, người thân chúng ta phải làm sao xứng đáng là một người Phật tử chân chính, bằng cách tu tâm dưỡng tánh, để cho thân tâm được an lạc, bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, đều sống trong biển khổ sông mê bởi tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn ngon, mặc đẹp, nên đã luân hồi sinh tử không có ngày thôi dứt. Ngày nay, chúng ta được đầy đủ phước duyên mới được làm đệ tử Phật, có điều kiện học hỏi Phật pháp, rồi quán chiếu, nghiệm xét và tu sửa những thói hư tật xấu, để ngày càng hoàn thiện chính mình hơn.

Ngoài việc quy y Tam bảo, vâng giữ năm điều đạo đức, tin sâu nhân quả, tu mười điều lành tránh xa các việc xấu ác, sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng và cuối cùng là phước huệ song tu, hành Bồ tát đạo cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.

b- Bổn phận đối với gia đình, người thân  

Người Phật tử tại gia còn có gia đình người thân, nên phải có trách nhiệm làm sao vuông tròn cả hai bên chồng và vợ. Đã làm người thì ai cũng có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái, bà con thân thích tạo nên quyến thuộc nội ngoại hai bên, cùng nhau gìn giữ và phát triển giống nòi nhân loại.

Đối với gia đình người thân, quý Phật tử phải khéo sắp xếp trong cách đối nhân xử thế, để làm tròn bổn phận giữa hai bên với nhau mà vẫn giữ được hòa khí vui vẻ, bằng tình người trong cuộc sống.  

Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta về đạo lý làm người, để giữ gìn các mối quan hệ có tính cách nhân bản, nhằm giúp chúng ta hoàn thiện chính mình. 

 

Đức Thế Tôn cứ theo thông lệ mỗi ngày đi vào xóm làng khất thực, trên đường đi, Thế Tôn thấy một chàng thanh niên đang lễ bái sáu phương rất là thành tâm: Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới.

Đây là một bản kinh nguyên thủy, ngắn gọn, xúc tích ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách làm tròn bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng hơn là Phật dạy cách xây dựng phát triển một xã hội hài hòa, bền vững và lâu dài về mọi mặt trong cuộc sống.

 

Phật dạy tránh bốn việc ác và sáu việc làm hao tổn tài sản

 

Khi Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, dẫn đầu đoàn khất thực với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-Kheo đi vào thành, đức Thế Tôn thấy một gia chủ tên Thiện Sanh đang lễ bái sáu phương, Ngài hỏi:

 

“Vì cớ sao, nhà ngươi vào buổi sáng sớm mỗi ngày đến đây, để lễ lạy sáu phương như thế?”

 

Thiện Sanh bạch Phật:

 

Cha con khi còn sống có dặn rằng: “Con mỗi ngày hãy cung kính lễ lạy sáu phương Đông,Tây, Nam, Bắc, trên và dưới”. Con nghe theo lời cha dạy không dám chống trái”.

 

Phật bảo Thiện Sanh: “Này chàng thanh niên hiếu thảo! Con lễ lạy sáu phương đó rất là tốt, nhưng trong pháp hiền Thánh của ta, lễ sáu phương như vậy chưa phải là thật sự cung kính”.

 

Thiện Sanh thưa: “Cúi xin đức Thế Tôn thương tưởng mà chỉ dạy cho con cách lễ lạy sáu phương theo pháp hiền Thánh”.

 

Phật bảo Thiện Sanh: “Nếu tất cả mọi người biết tránh bốn nghiệp xấu ác làm tổn hại người khác, và biết rõ sáu nghiệp làm hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sanh, nếu ai biết tránh được bốn việc ác là chân thật lễ kính sáu phương”.

 

Bốn nghiệp xấu ác đó là: Sát sinh hại vật, trộm cướp lường gạt của người khác, tà dâm, nói dối hại người, đây là bốn điều xấu ác mà người Phật tử chân chính phải nên tránh xa.

 

Do chúng ta gieo tạo bốn ác nghiệp đó, nên ta tham muốn, sân hận, ngu si và lo lắng sợ hãi. Có hai loại muốn mà ai cũng có thể bị nó chi phối là tham muốn và mong muốn. Tham muốn là sao? Là nhất quyết muốn cho bằng được, nếu không được thì bất mãn, tức tối khó chịu, phiền muộn giận dỗi phát sinh tìm cách chiếm đoạt.

 

Do đó tham muốn càng nhiều thì càng phát sinh các thứ phiền não, vì tham muốn mà không được như ý, nếu được thì tham càng thêm tham, nếu tham không được thì sinh ra giận hờn khó chịu, tìm cách trả thù. Như chúng ta đã biết, ít ai trong cuộc đời này mà không tham muốn. Có sự sống là có tham muốn, nhưng tham muốn nhiều hay ít là tùy theo sở thích của mỗi người mà thôi.

 

Tham có nghĩa là tham lam ích kỷ, nhỏ mọn, làm cái gì cũng muốn đem về cho riêng mình, dù có của dư thà để đó mục nát, chứ không dám đem ra giúp đỡ cho người khác.

 

Mong muốn có nghĩa là mong cầu, ước mơ, nếu có cũng được, không có cũng không sao. Tham muốn và mong muốn khác nhau ở chỗ đó, một đàng muốn cho bằng được, nếu không được thì nỗi giận oán hờn tìm cách trả đủa và quyết tâm chiếm đoạt về cho mình, nên bất chấp luân thường đạo lý có khi cũng phải giết người để thỏa mãn lòng tham muốn của mình.

 

Trong cuộc sống này chúng ta có quyền ước mơ mong muốn, chớ đừng nên tham muốn quá đáng mà làm tổn hại người khác, gây khổ đau cho nhau.

 

Sáu nghiệp làm hao tổn tài sản:

 

1- Đam mê rượu chè.

 

2- Đam mê cờ bạc.

 

3- Phóng túng sa đọa.

 

4- Đam mê ca hát múa.

 

5- Kết thân với bạn ác.

 

6- Ỷ lại và lười biếng.

 

Phật bảo Thiện Sanh:

 

Này Thiện Sanh, nếu ai không làm theo bốn nghiệp ác trên, lại biết tránh xa sáu điều hao tốn tài sản là chân thật cung kính sáu phương, thì hiện tại và mai sau đều an vui, hạnh phúc. Hiện đời được mọi người thương mến và khen ngợi, sau khi chết được tái sinh vào cõi lành.

 

Phật dạy tiếp: “Sáu phương là gì? Phương Đông là lễ lạy cha mẹ, phương Nam là lễ lạy sư trưởng, phương Tây là vợ con thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là người làm công”. Phật khéo léo chuyển hóa lễ sáu phương thông thường, bằng cách dạy chàng thanh niên trong đối nhân xử thế, phải biết phép tắc, tôn y trật tự từ thấp đến cao.

 

Do nghiệp lực chiêu cảm nên mới tạo ra mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Vậy phận làm con, cần phải biết hiếu thảo với cha mẹ mới xứng đáng là người con thảo cháu hiền theo lời Phật dạy.

 

                  Hiếu dưỡng mẹ và cha,

                  Nuôi dưỡng vợ và con,

                  Làm nghề không tổn hại

                  Là an vui hạnh phúc.

 

Do con cái tương ưng với duyên nghiệp của cha mẹ nên nghiệp chủng này nương gá vào, tác hợp với điều kiện của người cha và người mẹ, để hình thành một chúng sinh mới gọi là con người. Từ đây có thể thấy, do nhân duyên nhiều đời mới kết thành quan hệ cha mẹ và con cái.

 

Biết ơn là ghi nhận công lao của cha mẹ đối với con cái. Nhớ ơn là người có lòng nhân, biết nghĩ công khó nhọc hai đấng sinh thành mà hiếu dưỡng về vật chất lẫn tinh thần. Nếu như cha mẹ luôn làm tròn trách nhiệm và bổn phận đối với con cái một cách đầy đủ về mọi mặt, đó là bậc cha mẹ có nhân cách đạo đức và hiểu biết chân chính.

 

Phật giáo vượt lên trên mọi pháp thế gian và xuất thế gian, nên nói đến cha mẹ là nói đến lòng từ bi rộng lớn, nói đến phận làm con là sự hiếu thảo và dạy cho mọi người biết làm tròn bổn phận của mình, rồi sau đó mới tu pháp giác ngộ, giải thoát.

 

Gia đình là nền tảng, là nhân tố tích cực cho xã hội, nó giúp cho mối liên hệ giữa con người với nhau hình thành một nhân cách sống. Mối quan hệ thân thiết nhất là mối quan hệ gia đình giữa cha mẹ, vợ chồng và con cái…nó được kết nối bằng sợi dây huyết thống, bởi tình cảm của khối óc và con tim.

 

PHẬT DẠY BỔN PHẬN CON CÁI VỚI CHA MẸ

 

Đạo Phật là đạo hiếu hay tâm hiếu là tâm Phật, vì đức Phật thường khen ngợi những người con hiếu thảo. Đức Phật thường nói rằng, sở dĩ ta tu hành thành Phật là nhờ công ơn cha mẹ, nếu không có mẹ sinh, cha nuôi dưỡng thì làm sao ngày hôm nay ta mới được thành Phật.

 

Trong kinh Phật dạy: “Mẹ hiền còn gọi là giàu có, mẹ hiền mất đi gọi là nghèo khổ. Mẹ hiền còn là mặt trời mọc giữa trưa, mẹ hiền mất đi là mặt trời lặn buổi chiều. Mẹ hiền còn như đêm trăng sáng, mẹ hiền mất đi như đêm tối không trăng”. Người Phật tử chân chính, khi cha mẹ còn hiện tiền thì ta phải có lòng cung kính hiếu dưỡng để cho cha mẹ được vui lòng.

 

1- Nuôi dưỡng cha mẹ 

 

Ngoài những trách nhiệm lo cho gia đình người thân và đóng góp xã hội, thì một người con cần có bổn phận phải chăm lo đầy đủ các điều kiện vật chất và tinh thần cho cha mẹ. Người xuất gia, nếu như không có anh em lo cho cha mẹ thì vẫn được Phật cho phép phụng dưỡng cha mẹ trong khả năng của mình.

Siêng năng làm việc để có của cải nuôi dưỡng cha mẹ: Trách nhiệm đạo đức trước tiên của một người con đối với cha mẹ, là phải biết làm tăng thêm tài sản của cải, vật chất để nuôi dưỡng cha mẹ. Hay nói cách khác người con phải lấy sự biết ơn và đền ơn, bằng cách chăm sóc cha mẹ đầy đủ về đời sống vật chất lẫn tinh thần.

Tăng thêm của cải để bảo đảm đời sống gia đình bằng khối óc và con tim  mình, đó tinh thần trách nhiệm cao của người con biết hiếu thảo. Cuộc sống này nếu thiếu tiền bạc của cải, thì cũng không thể lấy gì mà phụng dưỡng cho cha mẹ khi cần thiết.

Chúng ta có thể dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn, bởi vì sao? Cha mẹ đã suốt đời hy sinh vì con cái, cũng không ai đòi hỏi con cái phải dâng hiến cho mình những gì vượt ngoài khả năng của con cái. Cho nên phận làm con, phải luôn biết vâng lời cha mẹ, tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế của gia đình mà lo cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn, không đợi cha mẹ phải đòi hỏi.

Trong xã hội ngày nay, nhiều người con sống trong cảnh nhà cao cửa rộng vật chất đủ đầy, nhưng vẫn để cho cha mẹ nghèo khổ, thiếu thốn khó khăn. Chính vì thế mà tục ngữ có câu:

       “Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng

       Con nuôi cha mẹ con tính tháng tính ngày”.

Đây quả thực là một tình trạng đáng buồn trong xã hội hiện nay, ơn cha mẹ được ví như trời cao biển rộng mà ta nở lòng nào tính tháng ngày khi nuôi cha mẹ. Rồi kế đến là ân nuôi nấng, từ khi mới sinh ra cho đến khi khôn lớn, cha mẹ phải lo lắng tốn kém đủ mọi thứ, để lo cho con ăn no, mặc ấm và an giấc ngủ ngon lành, mong cho con mau lớn nên người.

Khi con đau ốm, bệnh hoạn cha mẹ phải lo săn sóc, thuốc thang chữa trị cho con, đến nỗi phải quên ăn mất ngủ, cốt làm sao mong cho con được  khỏe mạnh là cha mẹ đã vui lòng.

Khi con có hiểu biết, cha mẹ phải dạy bảo con trong cách ăn uống, học hành, đi đứng nói năng lễ phép và trong đối nhân xử thế, đến khi khôn lớn bước vào cuộc đời, tự làm việc để nuôi sống bản thân, làm tròn trách nhiệm đối với gia đình và đóng góp lợi ích cho xã hội.

Cha mẹ là hai đấng sinh thành có ân nghĩa cao cả đối với con cái, có công lao to lớn hơn trời cao biển rộng, cho nên bổn phận người con phải biết hiếu thảo cung kính dưỡng nuôi, ai đã từng làm cha mẹ rồi mới thấy công ơn cha mẹ không gì có thể sánh bằng.              

Ngược lại làm con phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, tùy theo hoàn cảnh cuộc sống mà ta có thể lo lắng, chăm sóc cho cha mẹ đầy đủ các phương tiện vật chất lẫn tinh thần, để cha mẹ được vui vẻ hạnh phúc. Làm con mỗi ngày phải thức khuya dậy sớm, để lo sắp đặt miếng ăn thức uống cho cha mẹ được ăn ngon cảm thấy vừa miệng.  

Không tự làm gì khi chưa hỏi cha mẹ và không được trái ý cha mẹ: Mỗi một gia đình đều có truyền thống riêng mà các bậc ông bà tổ tiên đã dày công xây dựng. Người con hiếu thảo ngoài việc làm tròn bổn phận, phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ đúng pháp, còn là người biết gìn giữ các giá trị văn hóa và di sản truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Bổn phận người làm con khi muốn làm công việc gì cũng phải hỏi ý kiến cha mẹ trước, mục đích để giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình. Đạo Phật không dạy chúng ta phải tin theo các tín ngưỡng lạc hậu, mê tín có tính cách làm tổn hại con người.

Làm con trước tiên phải nhớ ân sinh sản, mẹ chín tháng cưu mang, ăn uống phải kiêng cử, giữ gìn cẩn thận trong khi làm việc hay đi, đứng, ngủ, nghỉ lúc thai mang. Trước khi sinh con đau đớn trăm bề tính mạng hiểm nguy, có khi phải bị mất mạng. Còn cha phải lo làm lụng vất vả, nhọc nhằn để lo cho mẹ tròn con vuông.

Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội, mà trước tiên là phải lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất cho cha mẹ như cúng dường thuốc thang, tiền bạc, quà cáp mỗi khi thăm viếng và nuôi dưỡng cha mẹ khi đau ốm bệnh hoạn hay trong lúc tuổi già.

Ở đây, một người con hiếu thảo khi phụng dưỡng cha mẹ thì cần phải biết quan tâm, cung kính, thương yêu chân thành, khi cha mẹ thải đồ bất tịnh cũng không được than phiền khó chịu.

 

2- Thay thế cha mẹ gánh vác công việc nặng nhọc 

 

Con cái chính là sự tiếp nối quan trọng, để duy trì nghề nghiệp, công việc của cha mẹ. Nếu trong gia đình mà không có người kế nghiệp được xem như là một bất hạnh lớn. Để tồn tại trên cuộc đời này, chúng ta cần phải có nghề nghiệp để sống, bất luận sang hèn, hay giàu nghèo.

 

Dù đó là các nghề làm ruộng trồng hoa màu và các loại cây ăn trái, hoặc mua bán trau đổi hàng hóa hai chiều, hoặc chăn nuôi các loại gia súc,  hoặc làm việc cho vua, quan hoặc bất cứ nghề gì dù là thấp kém, trong các nghề ấy, mọi người hãy siêng năng, tinh cần dùng bàn tay và khối óc của mình, để sản xuất làm việc và phục vụ là được.

Cáng đáng việc nhà, làm tròn bổn phận đối với cha mẹ: Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo của người tại gia. Có nhiều trường hợp đặc biệt, người con vì thương kính cha mẹ mà làm nhiều điều xấu xa tội lỗi, để chu cấp thức ăn uống cho cha mẹ.

Khi đã xây dựng hạnh phúc gia đình riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng chánh pháp, không làm các điều ác, mà hay làm các việc lành, thay cha mẹ làm các việc nặng nhọc.

Như chúng ta đã biết, ai cũng phải ăn uống mới bảo tồn sự sống, cho nên  một người con phải có hiểu biết chân chính và làm được những nghề nghiệp mà cha mẹ đã làm và đã truyền dạy lại cho ta. Thay thế cha mẹ phát triển và mở mang nghề nghiệp thêm lớn mạnh, là nhiệm vụ cao cả của phận làm con.

Trong bổn phận làm con, ngoài mục đích mưu sinh để đảm bảo đời sống vật chất đủ đầy cho bản thân, ta còn phải gánh vác, đỡ đần công việc cho cha mẹ.

 

3- Giữ gìn truyền thống gia phong 

 

Truyền thống gia phong là truyền thống đạo đức gia đình, của dòng tộc được giữ gìn và truyền thừa qua nhiều thế hệ tiếp nối. Truyền thống này có thể bao gồm cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, truyền thống gia phong ở đây là chúng ta phải hiểu rõ và thấm nhuần những giá trị đạo đức tốt đẹp.

 

Đạo đức tốt đẹp thuần thiện là chất liệu sống, cần phải có trong các mối quan hệ giao tế, trong cách đối nhân xử thế giữa con người và các đối tác xung quanh. Chất liệu tốt đẹp đó được chắt lọc, tích lũy qua nhiều thế hệ trước đó, để rồi cuối cùng kết thành truyền thống gia phong của từng gia đình người thân và quyến thuộc.

 

Giữ gìn truyền thống gia phong tốt đẹp còn được hiểu là mọi người chúng ta phải tự hoàn thiện tư cách đạo đức cá nhân. Phận làm con, việc giữ vững gia phong bằng cách chuyển hóa những thói xấu của bản thân, sống đúng, sống tốt theo lời Phật dạy cũng là một trong những phương cách giữ gìn truyền thống gia phong, được bền vững và lâu dài.

 

Một nhân cách sống được người trí tán thán và khen ngợi, đó chính là chúng ta biết từ bỏ sát sinh hại vật, trước tiên là không được giết người, kế đến là biết hạn chế giết hại từ con vật lớn cho đến các loài nhỏ nhít. Rồi chúng ta không gian tham trộm cướp hay lường gạt của ai, rồi sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người và không uống rượu say sưa và dùng các chất độc hại như xì ke ma túy.

 

4- Bảo vệ tài sản được kế thừa từ cha mẹ

 

Tài sản mà cha mẹ để lại bao gồm tất cả những giá trị vật chất lẫn tinh thần. Việc giữ gìn truyền thống gia phong chính là chúng ta biết sống tốt, không làm tổn thương đến người khác và còn hay giúp đỡ sẻ chia khi có nhân duyên. Ngoài ra, việc quản lý, giữ gìn và phát triển tài sản vật chất mà cha mẹ đã để lại cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với con cái.

 

Bằng mồ hôi và nước mắt, bằng con tim và khối óc với đôi bàn tay siêng năng, cha mẹ đã để lại một gia tài cho ta thừa hưởng. Việc quản lý giữ gìn tài sản gia phong được bền vững và lâu dài, là bổn phận quan trọng và cần thiết của những người con.

 

Chúng ta cần phải biết, việc tạo ra tài sản không phải dễ, nó đòi hỏi con người phải có đầy đủ năm yếu tố cơ bản: thứ nhất siêng năng tinh cần, thứ hai là tiết kiệm, thứ ba là không phóng túng hoang phí, thứ tư là khộng trộm cướp của ai và thứ năm là biết giúp đỡ, sẻ chia khi có nhân duyên. Việc tích lũy tài sản đã khó nhưng việc giữ gìn, bảo vệ tài sản đó được tồn tại lâu dài lại càng khó hơn.

 

5- Khuyến khích cha mẹ hướng thiện và biết quy hướng về Tam bảo

 

Con cái có thể báo đáp thâm ân cao cả của cha mẹ qua hai phương diện vật chất và tinh thần. Theo Phật giáo, phương diện tinh thần tức là phần tâm linh của chúng ta rất quan trọng và cần thiết, vì tâm ý suy nghĩ rồi mới nói năng và hành động.

 

Giáo lý đạo Phật ngoài việc chỉ dạy cho người xuất gia được giác ngộ, giải thoát hoàn toàn, mà Đức Phật còn chỉ dạy cách đối nhân xử thế để hoàn thiện đạo lý làm người trong gia đình và xã hội. Một con người sống có nhân cách đạo đức dù bất cứ ở hoàn cảnh nào, cũng có thể giữ mối quan hệ tốt đẹp bằng tình người trong cuộc sống.

Ngoài việc phải gánh vác tất cả công việc nặng nhọc, thay thế cho cha mẹ, để cha mẹ được phấn khởi vui vẻ trong lúc tuổi già. Người con hiếu lúc nào cũng nhớ ơn sanh thành, dưỡng dục, mà ráng lo báo đáp khi cha mẹ còn sanh tiền. Khi cha mẹ đau ốm, phải hết lòng săn sóc, hầu hạ bên giường, không nài khó nhọc, lo thuốc thang điều trị cho cha mẹ sớm mau hết bệnh mà không sợ hao tốn.

Mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái là mối quan hệ thiêng liêng và cao quý mang tính từ bi và hỷ xả. Các bậc cha mẹ không chỉ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái mà còn lo về phần tinh thần, giúp cho con cái có hiểu biết chân chính để sống tốt cùng với mọi người. Và bổn phận người con cũng phải chăm sóc đầy đủ cho cha mẹ phần vật chất lẫn tinh để cha mẹ được an vui, hạnh phúc, trong giờ phút hiện tại.

                                 Kinh Bổn sự nói:

                                 Trên đời có hai người

                                 Ân sâu khó đền đáp

                                 Đó là cha và mẹ

                                 Sinh ta, nuôi lớn ta.

Giả sử dùng hai vai đến trăm kiếp ngàn đời cõng cha mẹ, thường cung kính cúng dường cho ăn uống đầy đủ, cũng không đền đáp hết ân cao cả của mẹ cha. Vì cha mẹ đối với con cái sinh thành và dưỡng nuôi, dạy dỗ điều hay lẽ phải, thương yêu con cái chẳng nệ hà thân mình, để lo hạnh phúc cho con.

Phận làm con nếu khuyên cha mẹ biết quy hướng Tam bảo, tin sâu nhân quả tu học theo chánh pháp Phật đà, như vậy mới chân thật đền đáp ân sâu. Có cha mẹ biết đi chùa tin sâu Tam bảo là phước báo lớn cho gia đình người thân. Tu học Phật pháp giúp cho cha mẹ an vui nơi chánh pháp, sống ít phiền muộn về tuổi già, vui hưởng an lạc hạnh phúc hiện tại và mai sau.

Chúng ta có cha mẹ biết tin sâu nhân quả hay đi chùa là phước báo to lớn cho gia đình người thân. Kinh Báo hiếu Đức Phật dạy:

“Ví có người ơn sâu dốc trả, cõng mẹ cha tất cả hai vai, giáp vòng hòn núi Tu-Di, đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền”.

Sự sống của chúng ta hiện nay là đã mang ơn, thọ ơn trong nhiều đời kiếp. Nhất là thâm ân cao cả, ơn nghĩa sinh thành dưỡng dục của cha mẹ trong nhiều đời.

Tục ngữ Việt Nam có câu “thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”, điều đó nói lên tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của văn hóa gia đình, đối với đạo đức Phật giáo trong thời đại hiện nay.

Đạo thờ ông bà tổ tiên là một truyền thống của người Việt Nam từ ngàn xưa cho đến nay, đã tôn vinh sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, được thể hiện qua ca dao:

 

“Công cha nghĩa mẹ cao vời

Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta

Làm con nên phải xót xa

Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao”.

 

Đạo Phật là đạo hiếu, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Đối với người tu theo đạo Phật, hiếu thuận là hành trang cơ bản của nhân loại trên bước đường dẫn đến giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.

 

Trong kinh Phật dạy: “Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn tu hành đến nay mới thành Phật, toàn là nhờ công ơn của cha mẹ. Vậy nên người học Phật phải nên cung kính hiếu thảo cha mẹ”. Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ nên vô ngã vị tha, vậy người học Phật phải ý thức rằng:

 

“Nước biển mênh mông không đong đầy lòng mẹ

 Mây trời lồng lộng không phủ kín tình cha”. 

 

Cho nên người Việt Nam sống với nhau theo truyền thống “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, đó cũng là một biểu hiện của tính tương thân tương trợ cho nhau bằng tình người trong cuộc sống, con người nếu không có lòng hiếu thảo thì không thể làm được mọi việc tốt đẹp.

 

Biết ơn và đền ơn là giáo lý nền tảng của người Phật tử chân chính, khi thọ ơn ai dù là việc nhỏ nhặt nhất cũng không bao giờ quên. Nếu ai làm được như vậy người thế gian gọi đó là người tốt vì chúng ta biết sống có tình, có nghĩa đối với mọi người.

 

Biết ơn là nền tảng đạo đức sống của nhân loại, nên ơn nghĩa là cái gốc của đạo làm người. Con cái luôn hiếu kính với cha mẹ vì biết ơn mang nặng đẻ đau, công sinh thành dưỡng dục. Học trò quý kính, biết ơn thầy cô giáo nên cố gắng siêng năng, chăm chỉ học hành.

 

Trong cuộc sống, Phật thường nêu lên bốn ơn lớn là ơn cha mẹ, ơn thầy tổ, ơn đất nước và ơn đàn na tín thí để khuyên nhủ và răn dạy mọi người. Công ơn cha mẹ là một trong bốn ơn trọng, chúng ta phải có trách nhiệm đáp đền.

 

Một người con hiếu kính thì sẽ ăn nên làm ra, công thành danh toại, kẻ bất hiếu thì ít khi làm nên sự nghiệp. Đa số người con bất hiếu đều dính vào vòng tệ nạn xã hội, cha mẹ mà còn không biết ơn nghĩa, thử hỏi làm sao mở rộng tấm lòng giúp đỡ người xung quanh. Do đó, người con bất hiếu luôn thất bại trong cuộc sống và thường xuyên bị người đời chê trách, chính vì vậy mà hay làm khổ sở mẹ cha.

 

Phật dạy, niềm vui của bậc hiền Thánh là biết hiếu kính với cha mẹ, nhiều người không hiểu cứ nghĩ cúng dường cho người tu là có phước nên nghe đồn ở đâu có linh ứng một chút thì đùng đùng kéo đến cúng dường, bỏ mặc cha mẹ ở nhà khổ sở, thiếu thốn. Tu như vậy là đi ngược lại lời Phật dạy.

 

Trên đời này ai còn đủ mẹ cha là một phước báu to lớn, người con ấy thật hạnh phúc vì còn có cơ hội báo hiếu, chăm lo phần vật chất lẫn tinh thần, giúp cha mẹ an vui trong tuổi già nhờ biết quy hướng Tam Bảo. Phận làm con phải biết quan tâm, lo lắng, giúp đỡ để cha mẹ được an vui, hạnh phúc và một lòng tôn kính, quý trọng. Người con hiếu trước tiên phải biết vâng lời và kính trọng cha mẹ, nên ca dao có câu:

 

Thương cha mến mẹ con làm,

Không sợ tốn kém, không nề gian nan.

Công cha nghĩa mẹ khó đền,

                      Vào thưa, ra hỏi mới là đạo con.

 

Song bên cạnh đó, ở mỗi nhà Phật tử, bàn thờ Phật thường được trang trọng ở giữa nhà cao hơn bàn thờ gia tiên, để người con hiếu thảo tỏ lòng tôn kính Tam Bảo và ông bà tổ tiên.

 

Chính vì vậy hàng năm, ngày lễ Vu Lan nhắc nhở những người con hiếu thảo tỏ lòng biết ơn cha mẹ hiện tiền, tưởng nhớ cha mẹ nhiều đời để ngày càng sống tốt hơn, trong tình thương yêu bình đẳng với tất cả mọi người bằng trái tim hiểu biết.

 

Bổn phận con cái đối với cha mẹ là hiếu thảo kính yêu, cung cấp và nuôi dưỡng cha mẹ đầy đủ vật chất lẫn tinh thần, giúp những việc cha mẹ cần làm, giữ danh dự và truyền thống gia đình, giữ gìn tài sản, sự nghiệp của cha mẹ. 

 

Cha mẹ cũng có bổn phận nuôi nấng con khôn lớn và giáo dục con nên người, giúp con có nghề nghiệp, hướng con theo đường lành, dựng vợ gả chồng cho con, trao của thừa tự cho con đúng lúc.

 

Tóm lại, con người dù ở địa vị giàu sang hay nghèo khó, dù đẹp đẽ hay xấu xí, dù thông minh hay ngu dốt… tất cả đều nhờ vào công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Do đó, bổn phận làm con phải biết nhớ tưởng và báo đáp công ơn cha mẹ bất cứ hoàn cảnh nào. Như chúng ta đã biết, nền tảng đạo đức con người được xây dựng trên tinh thần của lòng biết ơn và đền ơn.

 

PHẬT DẠY TRÁCH NHIỆM CHA MẸ VỚI CON CÁI

Theo lời Phật dạy, cha mẹ sinh con cái không phải để thỏa mãn dục tính mà là thể hiện tình thương yêu đối với một phần máu mủ và sự sống của chính mình. Cho nên trách nhiệm làm cha mẹ đối với con cái là sợi dây huyết thống, cùng với một phần máu thịt mình đã sinh ra. Cha mẹ phải dạy cho con cái nên người.

Theo quan niệm trọng nam khi nữ từ ngàn xưa, con trai thường được cha mẹ thương yêu nhiều hơn con gái. Đó quan niệm con trai nối dõi tông đường, họ cho rằng nữ nhi ngoại tộc con gái phải theo chồng. Đứng trên quan điểm về nhân quả, trai hay gái cũng là con mình, nên các bậc làm cha mẹ phải thương yêu con cái bình đẳng.

Trong kinh đức Phật luôn nhấn mạnh đến nhân cách đạo đức trong mối quan hệ cha mẹ đối với con cái. Chính do tình thương yêu chân thật mà các bậc cha mẹ lúc nào cũng có trách nhiệm, bổn phận đối với việc nuôi  dạy con cái khôn lớn trưởng thành và sống có lợi ích cho xã hội, qua năm tiêu chí sau:

Thương yêu con cái: Mối quan hệ của các bậc cha mẹ trong đạo Phật được đặt trên cơ sở đạo đức, do đó, sự ra đời của con cái không phải nhu cầu thỏa mãn các khoái lạc giác quan thông thường mà còn có tinh thần trách nhiệm. Các bậc cha mẹ xem việc nuôi nấng con cái là nền tảng đạo đức, là trách nhiệm thiêng liêng cao quý, mà ai làm cha mẹ cũng muốn con cái mình lớn khôn và trưởng thành.

Trong trách nhiệm thứ nhất này, các bậc cha mẹ ngoài việc nuôi nấng con cái về thể chất, còn phải nuôi con cái hiểu biết nhân cách sống bằng đạo đức và lòng yêu thương chân thành. Bởi vì con cái mình mà ta không thể yêu thương được, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể yêu thương những người khác. Ngoài ra, yêu thương con cái phải đúng theo tinh thần Phật dạy, trước tiên chỉ dạy con cái không làm các việc xấu ác, mà hay làm việc thiện lành, phải chấp hành luật pháp xã hội, duy trì truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Các bậc cha mẹ giáo dục con cái như vậy, là sự giáo dục của người có nhân cách đạo đức, có hiểu biết, có trí tuệ, biết nhìn xa trông rộng, không để cho con cái ỷ lại vào cha mẹ, hướng dẫn chúng tính tự lập và tin sâu nhân quả. Các bậc cha mẹ thương yêu con cái trong mù quáng, vô tình đưa con mình vào con đường tội lỗi, như vậy sẽ trở thành chướng ngại cho đời sống gia đình và xã hội.

Giáo dục con cái trong gia đình, vai trò người mẹ rất quan trọng, từ khi mới mang thai mẹ phải ăn uống kỹ lưỡng chừng mực, khời nghĩ làm điều thiện để ảnh hưởng đứa con sau này.

Cung cấp cho con cái đầy đủ: Điều thứ hai mà cha mẹ có trách nhiệm với con cái là không để chúng thiếu thốn về vật chất và tinh thần. Trên phương diện vật chất, bậc làm cha mẹ phải tùy vào khả năng có được, để lo cho con cái đầy đủ như ăn uống mặc ở cho đến các phương tiện học hành phát triển tài năng, trí tuệ. Trên phương diện tinh thần, cha mẹ phải thường xuyên quan tâm chăm sóc, chia sẻ hỏi han để động viên con cái  vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ngày nay, nhiều bậc cha mẹ chỉ biết cung cấp cho con cái về mặt vật chất mà thiếu sự quan tâm về mặt tinh thần, do bộn bề công việc hoặc ham làm giàu quá mức mà lãng quên con cái. Do đó, con cái dễ bị bạn bè xấu quyến rũ, bị sa đọa vào các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy, bậc làm cha mẹ phải biết quan tâm về hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Tạo dựng nghề nghiệp chân chính cho con cái: Tạo dựng nghề nghiệp chân chính cho con cái, nhằm đảm bảo an sinh đời sống về lâu dài. Phật giáo luôn lấy nhân quả làm nền tảng để giáo dục mọi người ý thức rằng “nhân quả tốt xấu là do mình tạo ra”. Đây là phương cách giáo dục vô cùng sáng suốt vì đã loại bỏ yếu tố ỷ lại vào người khác, và phát triển năng lực làm chủ bản thân.

Các bậc cha mẹ phải biết cách hướng dẫn con cái tinh thần tự lực, sống không ỷ lại mà cố gắng siêng năng trau giồi nghề nghiệp mình đang làm theo quy luật cuộc sống có đạo đức. Con cái biết phát huy tinh thần tự lực, dưới sự hướng đạo của cha mẹ, mới thật sự lớn khôn trưởng thành trong xã hội.

Sự sống nhờ vả, dù đó là nhờ vào cha mẹ, cũng chỉ là giải pháp tạm thời không giúp ích cho con cái về sau này, nếu chúng vẫn còn quan niệm ỷ lại. Con người ta chỉ thật sự trưởng thành, bằng sự tự lập với đôi bàn tay và khối óc của mình, mới có thể tồn tại lâu dài. Chính sự giáo dục này giúp cho con cái thoát khỏi các cạm bẫy ăn chơi sa đọa, góp phần ổn định an sinh đời sống của bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội.

Tìm nơi chốn xứng đáng để dựng vợ gả chồng cho con cái: Trách nhiệm của các bậc cha mẹ ngoài việc giáo dục đạo đức tránh ác làm lành, ổn định nghề nghiệp, mà còn chăm lo đến đời sống lứa đôi cho con cái. Đạo Phật đề cao tinh thần bình đẳng trong mối quan hệ hôn nhân trong tình yêu.

Khi con cái đã đến tuổi trưởng thành, việc quyết định đời sống hôn nhân của chúng được quyền lựa chọn theo nhân duyên của mỗi người. "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên" là một phương châm bình đẳng, khuyến khích bậc làm cha mẹ không nên cưới vợ hoặc gã chồng theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”.

Cha mẹ không chỉ là người sinh ra con cái mà còn là người thầy giáo đầu tiên dạy dỗ, người hướng dẫn đời sống hôn nhân trong tình yêu cho con cái. Ngoài việc, truyền trao kinh nghiệm trong hôn nhân cho con cái, các bậc cha mẹ còn phải hướng dẫn con cái chọn lựa người bạn đời thích hợp để đảm bảo hạnh phúc gia đình.

Ở góc độ đạo đức, người con khôn ngoan nên biết chọn cho mình người bạn đời có đủ phẩm chất đạo đức ít nhất như mình. Hoàn toàn không có chuyện ép buộc và sắp đặt của cha mẹ trên vấn đề hôn nhân của con cái. Đây chính là tinh thần giáo dục rất phù hợp đời sống hôn nhân hiện đại.

Trong việc dựng vợ gả chồng xứng đáng cho con cái sống đời hạnh phúc trong hôn nhân, không chỉ có được từ sự giàu sang mà phải tương thích về phẩm chất đạo đức, ổn định công ăn việc làm và hạnh nguyện dấn thân chia sẻ. Trong bất kỳ cuộc hôn nhân nào nếu có sự tương thích về đời sống đạo đức và có lý tưởng đúng đắn, biết cảm thông tha thứ cho nhau thì đảm bảo hạnh phúc lâu dài.

Cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con cái: Trách nhiệm thứ năm này mang ý nghĩa pháp lý và tính nhân bản cao, việc truyền trao này bao gồm di chúc và tài sản thừa tự cho con cái. Có nhiều bậc cha mẹ đã không nghĩ tới chuyện này khi còn khỏe mạnh. Do đó, khi nhắm mắt ra đi,  anh chị em tranh giành tài sản do cha mẹ để lại, dẫn đến cảnh tan nhà nát cửa.

Chính vì thế, để tránh các tình trạng trên, Đức Phật đã dạy các bậc cha mẹ phải di chúc và truyền lại gia tài khi mình còn sáng suốt và khỏe mạnh, trên tinh thần bình đẳng chia đều cho con cái, không kể là gái hay trai.

Quan trọng hơn hết là cha mẹ không nên chìu chuộng con quá mức, tục ngữ có câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Thái độ nuông chìu quá đáng làm cho con cái dễ dàng hư hỏng và thêm bịnh ỷ lại, lười biếng mà sinh ra nhiều cố tật, dễ vướng vào tệ nạn xã hội.

Cha mẹ luôn luôn có bổn phận chăm lo cho dưỡng dục con cái, chẳng những lo chúng ăn no, mặc ấm mà cha mẹ nào cũng muốn cho con mình ăn ngon, mặc đẹp, lo cho con học hành thành tài để có một nghề nghiệp ổn định, có danh phận địa vị với xã hội. Làm cha mẹ phải có bổn phận thiêng liêng hơn, hướng dẫn con cái mình bước vào đường đạo và tin sâu nhân quả, tránh ác làm lành để sống đời thánh thiện đạo đức.

Cha mẹ phải biết giáo dục khi chúng còn nhỏ: Trẻ con từ 3 đến 12 tuổi, mỗi lần đi chùa, chúng ta nên dẫn chúng theo, đến chùa tập cho chúng biết quỳ, biết lạy, biết dâng hương hoa, tỏ lòng cung kính đối với đức Phật và chư Tăng, Ni.

Lúc đã lớn: Chừng 13 tuổi trở đi cho đến tuổi đôi mươi, là tuổi đang tìm hiểu, biết tò mò, học hỏi, tham khảo những điều hay lẽ phải. Bậc cha mẹ hãy nên khuyến khích con cái đi chùa, quy hướng Tam bảo, có niềm tin sâu sắc đối với nhân quả, nhờ vậy con cái sẽ biết tránh ác làm lành mà sống đời đạo đức khi lớn khôn, trưởng thành.

Xưa nay chúng ta thường nghe nói đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ mà còn tự do và bình đẳng với hết thảy chúng sinh, cho nên người Phật tử chân chính, tùy theo hoàn cảnh mà cố gắng ứng dụng Phật pháp vào đời nhằm chuyển hóa phiền muộn khổ đau, thành an vui hạnh phúc.

Người Phật tử chân chính trước tiên phải tin rằng, đức Phật là một bậc hoàn toàn giác ngộ giải thoát, những điều Ngài giảng dạy được ghi lại trong kinh điển đều là chân lý, bởi do Ngài tu chứng mà nói ra. Chúng ta tin rằng người tu theo đạo Phật, nếu hành trì đúng theo lời Phật dạy thì sẽ chấm dứt mọi khổ đau, và bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Tóm lại, cha mẹ dạy con khi còn nhỏ từ cách ăn uống, đi đứng, nói năng đều phải theo nguyên tắc kính trên nhường dưới, tin sâu nhân quả, tránh ác làm lành, tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, nhờ vậy con cái khi khôn lớn trưởng thành sẽ biết cách hoàn thiện chính mình.

PHẬT DẠY MỐI QUAN HỆ TỐT ĐẸP VỢ CHỒNG

Bên cạnh mối dây huyết thống giữa cha mẹ và con cái, còn có mối quan hệ chồng vợ, quan hệ anh chị em. Về quan hệ chồng đối với vợ phải yêu thương, tôn trọng và chung thủy, quan tâm chăm sóc chu đáo đời sống vật chất lẫn tinh thần, thường tặng quần áo, trang sức cho vợ. Vợ đối với chồng phải thương yêu, kính trọng và trung thành, quản lý tốt nhà cửa, gìn giữ tài sản, sự nghiệp của chồng.

Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái tức là sự thương yêu trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi đó là tình cảm.

Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng nhận thức và làm tròn bổn phận đối với gia đình và đóng góp, lợi ích thiết thực cho xã hội.

Tình cảm cũng giống như một thứ linh dược quan trọng, nó có thể cảm hóa và thay đổi được mọi thứ, nó là sợi dây gắn kết giữa con người với con người, nó đã làm cho con người thêm gần gũi với nhau, nhờ tình yêu thương chân thật.

Cuộc đời này sẽ không còn giá trị thiết thực, khi con người sống không có tình cảm với nhau. Ta chỉ thương yêu quý mến lo lắng cho nhau thật sự khi nó là của riêng ta. Tình cảm con người được biểu hiện qua tâm lý cảm xúc buồn vui, thương ghét, giận hờn, lo lắng, sợ hãi, ganh tị, tật đố và tham muốn.

Trước hết, hòa theo dòng chảy của thời gian con người với bộn bề công việc, nhiều lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống của ta sao quá nhiều vô vị, chán nản, mệt mỏi, cô đơn và vô cùng tuyệt vọng.

Khi chúng ta ngồi lại để phân tích tìm cảm luyến ái, yêu ghét của con người, ta sẽ thấy rõ ràng đều xuất phát từ sự tham lam ích kỷ do ngu si chấp ngã mà ra. Cái gì làm cho ta thỏa mãn được lòng ham muốn thì sự yêu thích sẽ phát sinh để ta bám víu dính mắc vào đó. Ngược lại, cái gì ngăn cản lòng tham muốn của chúng ta thì sẽ phát sinh ra sự bực tức, nóng giận và dẫn đến thù hằn ghét bỏ.

Chúng ta sống trong cõi đời là để được chia sẻ yêu thương, để mở rộng tấm lòng nhân ái với mọi người. Chỉ có tình yêu thương chân chính mới giúp chúng ta sống gần gũi và biết chia sẻ trong sự cảm thông, bằng trái tim hiểu biết. Thế gian này không một ai sống mà không cần đến tình yêu thương, bởi nó là sợi dây vô hình mầu nhiệm kết nối trái tim lại, làm cho con người được sung sướng và hạnh phúc.  

Thực tế trong cuộc sống chúng ta chỉ thương yêu người đem lợi ích về cho mình và sẽ vắng bóng tình thương khi quyền lợi không còn nữa. Tình yêu nam nữ luôn mang tính chất ích kỷ của sự chấp ngã, vì sự đam mê say đắm thân này.       

Từ ngàn xưa cho đến nay tình ái vẫn là thứ dễ làm cho con người mù quáng và si mê nhất, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi, do đó, rất nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra làm đau lòng nhân thế. Cảnh nhồi da xáo thịt làm mất đi nhân cách của một con người, con giết cha, mẹ giết con, vợ giết chồng rồi kẻ tình địch giết hại lẫn nhau vì ghen tuông vô cớ.

Con người càng ngày làm mất đi giá trị nhân cách do không hiểu biết và nhận thức thiếu sáng suốt, nên dễ dàng gây tạo nhiều tội lỗi và làm khổ đau cho nhau.

Ai cũng có thể biết tình yêu đưa đến hôn nhân nhằm phát triển giống nòi nhân loại và bảo vệ truyền thống gia tộc, nhưng lại là đầu mối của nhiều hệ lụy khổ đau, bởi sự yêu thương trong vị kỷ cho nên nói tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ, đời mất vui khi đã vẹn câu thề.

Thật ra tình dục không phải là chuyện xấu, nó luôn gắn liền với con người từ vô thủy kiếp đến nay. Đã là chúng sinh thì phải ăn, phải ngủ, phải làm việc và thụ hưởng cảm giác khoái lạc.

Con người là một sinh vật cao cấp, hơn hẳn các loài khác về mọi phương diện, nếu biết suy nghĩ, nói năng và hành động hướng thiện bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, thì sẽ giúp ích cho nhân loại sống an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

Ngược lại, vì tình cảm riêng tư muốn chiếm hữu trong sự ganh ghét ích kỷ tham lam sẽ gây khổ đau cho nhau. Chính vì thế, mà loài người luôn đứng ở vị trí cao quý vì biết cách làm chủ bản thân, nếu vì lòng tham cho riêng mình thì cùng hung cực ác, nếu vì lợi ích chung cho nhân loại thì lợi ích cho con người không loài nào bằng.    

Trách nhiệm của chồng đối với vợ

Chồng thương yêu vợ được thể hiện qua năm phương diện sau: Yêu thương tôn trọng vợ trong bình đẳng, không khinh thường vợ, sống trung thành và chung thủy với vợ, giao quyền hạn cho vợ quán xuyến mọi công việc, mua đồ trang sức tặng vợ.

                                “Dù cho vật đổi sao dời

                         Đôi ta vẫn giữ một lòng thủy chung”.    

Tình yêu nam nữ trong hôn nhân là sự tự nguyện đến với nhau, bởi thương yêu nhau, gắn bó nhau, sống không thể thiếu nhau và cùng san sẻ bồi đắp cho nhau. Ca dao Việt Nam có câu: “Đồng vợ đồng chồng, tát biển đông cũng cạn”.

1- Người chồng phải biết thương yêu tôn trọng vợ là chất liệu làm nên hạnh phúc gia đình, do đó người chồng phải biết quan tâm nói những lời khen ngợi, về tài năng và đức hạnh của vợ mình.

Tôn trọng vợ là biết quan tâm, nói những lời khen ngợi về tài năng và đức hạnh của vợ, biết thương yêu và không khinh thường vợ trên tinh thần bình đẳng nam nữ, không nên coi vợ như người đầy tớ muốn mắng chửi, đánh đập lúc nào cũng được, gây ra cảnh bạo hành trong gia đình.

2- Người chồng không nên khinh thường và hà hiếp vợ, nghĩa là biết thương yêu và không nên coi vợ như người giúp việc muốn mắng chửi đánh đập lúc nào cũng được, gây ra cảnh bạo hành trong gia đình, như hiện nay chúng ta đã thường thấy.

3- Người chồng luôn thương yêu quý mến vợ như người bạn và một lòng sống thủy chung, đó là yếu tố chính để bảo vệ hạnh phúc tình yêu lứa đôi. Một gia đình thật sự an vui hạnh phúc là biết san sẻ cho nhau bằng trái tim yêu thương và có hiểu biết.

Chồng luôn thương yêu, quý mến vợ và một lòng sống thủy chung là yếu tố chính để bảo vệ tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Một gia đình hạnh phúc trên thuận dưới hòa không thể có người chồng lăng nhăng, dan díu với người nữ khác.

4- Người chồng phải nên tin tưởng và giao quyền cho vợ, vì người phụ nữ thường quản lý, quán xuyến sắp xếp ổn định việc nhà giỏi hơn đàn ông, do đó chồng phải tin tưởng tuyệt đối giao quyền cho vợ.

Người phụ nữ thường quản lý, quán xuyến, sắp xếp ổn định việc nhà giỏi hơn đàn ông nên chồng phải tin tưởng tuyệt đối, giao quyền cho vợ. Nếu người chồng so đo, ích kỷ, hẹp hòi, đưa tiền cho vợ từng bữa thì chẳng khác nào xem vợ như người giúp việc.

5- Người chồng hãy nên hâm nóng lại tình yêu bằng cách mua đồ trang sức tặng cho vợ mình, nhân sinh nhật kỷ niệm ngày cưới. Thích làm đẹp và mang đồ trang sức đó là sở thích của người phụ nữ. Việc quan tâm tặng quà cho vợ để nhắc lại những kỷ niệm đẹp thời hai đứa mới yêu nhau, làm cho người nữ tăng thêm phần hạnh phúc hơn.

Lúc mới quen nhau người nam thường tặng quà cho người nữ để lấy lòng, khi đã chính thức nên duyên thì ít quan tâm đến cảm xúc hay vấn đề tặng quà cho vợ vì nghĩ nàng đã thuộc về mình.

Thích làm đẹp và mang đồ trang sức là sở thích của người nữ, việc quan tâm tặng quà cho vợ để nhắc lại những kỷ niệm đẹp thời hai đứa mới yêu nhau làm cho người nữ tăng thêm phần hạnh phúc, là cách thức hâm nóng lại tình yêu để phụ nữ tăng thêm nghị lực sống, cố gắng vượt qua những gian nan, khó khăn mà họ phải gánh lấy một mình khi làm vợ. Việc mua đồ trang sức tặng cho vợ là thể hiện mẫu người chồng lý tưởng, giúp cho tình nghĩa vợ chồng luôn được đẹp mãi theo thời gian.

Theo quan niệm ngày xưa, người chồng là lao động chính trong gia đình, người vợ lo việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái, lo chu toàn mọi việc trong nhà. Thời đại ngày nay cả chồng lẫn vợ đều cùng làm việc như nhau, nếu chồng đi làm về mở ti vi xem hoặc nằm phè ra nghỉ, để vợ một mình lo việc cơm nước là không hợp lý, người chồng phải biết chia sẻ, gánh vác cùng vợ.

Khi chồng nóng giận nặng lời thì vợ phải biết nhẫn nhịn và tìm cách lựa lời khuyên nhủ, hoặc khi chồng khuyên bảo hay chỉ dạy điều gì thì vợ phải biết lắng nghe.

Bổn phận vợ đối với chồng như sau:

1- Người vợ luôn một lòng chung thủy với chồng để được sống yêu thương và hiểu biết.

2- Quán xuyến và xử lý việc nhà một cách tốt đẹp.

3- Gần gũi, đối đãi tốt với họ hàng thân thuộc, khách khứa và những người giúp việc thay chồng.

4- Biết chi tiêu mua sắm đúng mức và gìn giữ tiền bạc tài sản cho gia đình.

5- Luôn chu toàn tốt đẹp trong mọi công việc.

Chung thủy và biết nhường nhịn, cảm thông và biết tha thứ cho nhau là bí quyết dẫn đến hạnh phúc gia đình dài lâu. Thành thật là một đức tính tốt đẹp luôn giúp vợ chồng biết thương yêu, tin tưởng lẫn nhau. Chồng không gian dối vợ, vợ luôn trung thực, thật thà với chồng nên không có sự nghi ngờ.

Khi mới quen nhau còn trong giai đoạn tìm hiểu ai cũng muốn làm đẹp lòng người yêu nên bằng mọi cách thể hiện những đức tính tốt đẹp, đến khi lấy nhau bắt đầu thói quen xấu lộ ra, nếu không biết cảm thông và tha thứ cho nhau thì dễ dàng dẫn đến mâu thuẫn, gây gổ, cãi vã, trách móc lẫn nhau. Nhẹ thì gia đình xào xáo, nặng thì dẫn đến ly dị, ly hôn.

Muốn giữ vững hạnh phúc gia đình vợ chồng phải đồng phát tâm cùng hướng về con đường thiện, hãy nói không với các việc xấu ác và hãy siêng năng làm những việc thiện lành. Chồng phải biết thương yêu, quý kính, tôn trọng vợ, đó là chất liệu làm nên hạnh phúc gia đình.

Người vợ phải luôn một lòng thương yêu, quý kính, thủy chung với chồng để giữ mãi kỷ niệm đẹp về tình yêu. Biết quán xuyến và xử lý việc nhà một cách tốt đẹp, đối đãi tốt với họ hàng thân thuộc, khách khứa và những người giúp việc thay chồng.

Người vợ phải biết chi tiêu, mua sắm đúng mức và gìn giữ tiền bạc, tài sản cho gia đình; cẩn thận, siêng năng, tháo vát, vuông tròn trong mọi công việc. Nhờ những yếu tố tích cực trên mà vợ chồng sống với nhau bền lâu  cho đến ngày răng long tóc bạc.

Ngoài ra đối với bà con hai họ, hai vợ chồng phải biết cung kính tôn trọng người lớn, an ủi giúp đỡ kẻ nhỏ và sẵn sàng san sẻ mỗi khi có việc cần thiết. Đối với xã hội, gia đình là nền tảng làm nên cuộc sống. Một gia đình luôn biết sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết, là nhân tố tích cực đem lại an vui, hạnh phúc và lợi ích cho xã hội.

Tóm lại, muốn cho tình nghĩa vợ chồng được hạnh phúc dài lâu thì chúng ta phải biết thương yêu nhau, sống thủy chung, tôn trọng, thành thật, biết thông cảm và tha thứ cho nhau….. Đây chính là những điểm then chốt làm nên hạnh phúc gia đình của người cư sĩ tại gia, mà ai cũng cần phải biết để áp dụng và thực hành.

Phật dạy người cư sĩ tại gia có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng phải thủy chung một chồng một vợ, không được dan díu và quan hệ bất chính với vợ chồng người khác. Ngoại tình là nguyên nhân dẫn đến ghen tuông vô cớ và phá hoại hạnh phúc gia đình người khác.

Trong tình yêu ghen tuông luôn gắn liền với ích kỷ và nó là trạng thái tâm lý không thể tách rời nhau, có yêu thương là có ghen ghét. Bao nhiêu vụ án xảy ra làm đau lòng nhân thế với những cái chết thật đáng tiếc và vô lý làm sao, chỉ vì ghen tuông trong mù quáng. Bởi vì chúng ta yêu thương trong sự lợi dụng lẫn nhau, mà không có tình yêu thương chân thật, nên dẫn đến hẹp hòi, ích kỷ làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.

Trong tình ái do bảo vệ cái ta ích kỷ hoặc ghen tuông vô cớ, dễ làm con người mù quáng gây nhiều đau khổ cho nhau. Tình yêu bản chất vốn không xấu xa tội lỗi, ai cũng muốn mình được an vui hạnh phúc trong đời sống lứa đôi, nhưng vì chúng ta không có sự hy sinh và chia sẻ cho nhau, ta không biết bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, vì sự tham lam ích kỷ của ta.

Ai thương yêu và giúp đỡ ta, ta sẽ quý mến họ. Ai làm hại ta, ta sẽ thù ghét họ. Đó là quy luật tất yếu của thế gian mà ít người vượt qua nỗi. Một khi giữa hai người không đáp ứng được nhu cầu cho nhau, từ đó vợ chồng bị sức mẻ rạn nức dẫn đến gây gổ cãi vả và việc bạo hành sẽ xảy ra, cuối cùng dẫn đến đổ vở hạnh phúc vì trong họ không có tình yêu thương chân thật.  

Quan niệm về tình yêu, hôn nhân vợ chồng sống với nhau vừa có tình, vừa có nghĩa, trong mối quan hệ vợ chồng phải có tình yêu, tình bạn tri kỷ, phải có sự tôn trọng lẫn nhau và có trách nhiệm, bổn phận trong việc sẻ chia niềm vui hay nỗi buồn.

Những đổ vỡ, trong đời sống gia đình dẫn đến mất hạnh phúc, tình trạng ly dị, ly thân, ngoại tình, gây ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội, đã khiến cho người ta xem xét lại và tìm thấy những giá trị tích cực lời Phật dạy trong hôn nhân tình yêu.

Sợi dây kết hợp vợ chồng là ân ái. Nhưng chúng ta ân ái phải có hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục thì mới bảo đảm hạnh phúc lâu dài. Tình yêu lứa đôi, luôn đóng vai trò thiết yếu quan trọng trong cuộc sống và thế giới loài người sở dĩ tồn tại và phát triển nhờ loại tình yêu mãnh liệt này.

Chúng ta vì muốn bảo vệ tình yêu cho riêng mình trong sự ích kỷ, nên mới phát sinh ra các thứ tình cảm như yêu ghét, buồn vui, thương giận và lo lắng. Tình ở đây nói chung gọi là tình người trong cuộc sống như tình cha mẹ, tình chồng vợ, tình anh em, tình bè bạn, tình làng nghĩa xóm, tình yêu, tình nhân loại v..v…

Vì cái tình đó, cho nên con người sinh ra luyến ái, mến thương, yêu thích và luôn gắn bó với nhau nhiều hơn. Chính vì nhìn thấy được bản chất thật của tình cảm con người rất phức tạp và phiền toái, nên các bậc Thánh nhân thường hay khuyên nhủ mọi người hãy nên tu tập tâm từ bi để mở rộng tấm lòng rộng lớn bằng tình yêu thương chân thật không vị kỷ.

Tình cảm con người thật sự bao la không ngần mé, phải được xuất phát từ tình yêu thương chân thật bằng trái tim hiểu biết nên dễ cảm thông và tha thứ cho nhau. Trong tình yêu ngoài sự quan hệ tình dục ra, chúng ta còn có trách nhiệm bổn phận đối với việc nuôi dạy con cái. Cho nên trong tình yêu cần có sự hy sinh, bao dung và độ lượng, nâng đỡ và sẻ chia, rồi còn phải tha thứ và cảm thông cho nhau.

Tình yêu chân thật là phương thuốc tinh thần mầu nhiệm xoa dịu các nỗi đau bất hạnh, để chúng ta vững vàng vượt qua những phiền muộn khổ đau của cuộc đời. Để khám phá ra ý nghĩa cho cuộc đời của mình, và để sống cho những điều mà chúng ta cho là ý nghĩa nhất phù hợp với lòng người.

PHẬT DẠY MỐI QUAN HỆ GIỮA THẦY VÀ TRÒ

Giáo lý nhà Phật và đạo lý làm người đều tán dương mối liên hệ thầy trò qua sự biết ơn, để mỗi người chúng ta hình thành nhân cách sống. Mỗi con người hiện hữu ở đời đều do cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng, nhưng sự trưởng thành, lớn khôn, hòa nhập vào cộng đồng xã hội để làm thành cho nhau đều nhờ công ơn giáo dưỡng của thầy cô. Thế nên, bổn phận của người học trò luôn ý thức tôn kính thờ thầy mà mọi người thường gọi là: “Tôn Sư trọng đạo”.

1- Rèn luyện cho học trò theo những đức tính mà mình có.

2- Dạy cho học trò giữ gìn và nhớ kỹ điều cần thiết.

3- Dạy cho học trò nắm vững nghề nghiệp đến mức thuần thục.

4- Khen học trò đối với bạn bè quen biết.

5- Đảm bảo nghề nghiệp cho học trò trên mọi mặt.

Trong các mối quan hệ của cuộc sống thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng nhằm mở mang kiến thức hiểu biết, nâng cao trình độ về nhận thức, để sống có nhân cách đạo đức với mọi người. Do đó, người thầy trở thành bậc mô phạm giữa đời, là tấm gương sáng để người học trò học hỏi và ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Người thầy ngoài trách nhiệm trao truyền kiến thức đến người học trò mà còn chỉ dạy họ biết thực hành qua ý nghĩ, lời nói và hành động tốt đẹp. Đây chính là bước đi đầu tiên mà người học trò cần rèn luyện để trưởng thành với những đức tính tốt đẹp, đức Phật là vị thầy mô phạm ở đời, giúp cho nhân loại biết cách hoàn thiện chính mình.

Thế nên, đức Phật giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán để cho mọi người biết cách làm chủ bản thân, vượt qua biển khổ sông mê do dính mắc vào tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp và ngũ nghỉ thoải mái.

Trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là mối quan hệ giữa thầy và trò, có một mối quan hệ mật thiết, để tạo nên nền tảng sống tốt đẹp trong hiện tại và mai sau. “Tôn sư trọng đạo” là một nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, các thế hệ người Việt qua mối quan hệ thầy và trò luôn được mọi người quan tâm đặc biệt, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cá nhân, gia đình và xã hội.

Người thầy ngoài việc chỉ dạy kiến thức, mà còn hướng dẫn về đạo làm người, truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc Việt Nam, được đất nước ta quan tâm, khích lệ. Một người thầy chuẩn mực đạo đức đều phải có cái tâm chân thật. Cái tâm của người thầy chính là thể hiện nhân cách sống đạo đức, thấm nhuần đạo lý nhân quả qua sự chỉ dạy cho học trò vì lợi ích của cộng đồng xã hội.

Ngược lại, học trò phải luôn một mực kính trọng người thầy của mình và biết lắng nghe lời thầy chỉ dạy. Người học trò cần phải học tập theo tấm gương đạo đức của thầy, cố gắng rèn luyện trau dồi, nhân cách sống cho phù hợp với đạo lý làm người.

Tình nghĩa thầy trò là một trong những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp mà hầu hết mọi người đều trân quý, cung kính báo ơn và khiêm tốn đối với những người quan tâm chỉ dạy mình.

Trong kinh Phật dạy về cách ứng xử giữa thầy và trò qua năm điều thờ kính, phụng dưỡng thầy. Năm điều đó là gì? Một là khéo cung kính vâng lời. Hai là khéo chăm sóc giúp đỡ, hầu hạ thầy mỗi khi cần thiết. Ba là hăng hái nhiệt tình. Bốn là nghề nghiệp giỏi. Năm là hay thờ kính thầy.

Ngược lại, thầy cũng dùng năm việc săn sóc đệ tử. Năm việc đó là gì? Một là dạy cho nên nghề. Hai là nhiệt tình dạy dỗ. Ba là dạy hết những điều mình biết. Bốn là hướng học trò đến chỗ lành. Năm là gửi gắm bậc thiện tri thức. Phật đã chỉ dạy năm bổn phận căn bản của người học trò đối với thầy, biểu lộ rõ tinh thần “tôn sư trọng đạo”.

 

Trong thời đại văn minh vật chất ngày hôm nay, tình nghĩa thầy trò hầu như thiếu sự gắn bó. Giữa thầy và học trò có một khoảng cách khá xa, không thân tình và gần gũi như ngày xưa. Bởi vì xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu cho cuộc sống lại cao hơn nên ít có thời gian thầy trò gắn bó, mật thiết với nhau do bộn bề công việc.

 

Mối quan hệ giữa thầy và trò, trong các truyền thống tâm linh cũng có khi rời rạc không gắn bó như thời xa xưa. Do đó người học trò rất dễ bị yếu kém về phẩm chất đạo đức, vì ít gần gũi để học hỏi kinh nghiệm quý báu từ lời dạy của thầy. Chính vì vậy, cơ hội thầy trò ngồi lại bên nhau để cùng chia sẻ kinh nghiệm, nhằm tháo gỡ những khó khăn đang còn bị vướng mắc mà biết cách hoàn thiện chính mình.


Người học trò khi được tiếp xúc với thầy, việc trước tiên là chúng ta cần phải học hỏi đạo lý để có niềm tin sâu sắc về nhân quả và có nhận thức sáng suốt hơn, trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

 

Việc trao truyền tri thức và đạo lý cho thế hệ kế thừa là trách nhiệm của  thầy phải biết hướng dẫn đệ tử có nghề nghiệp vững chắc, sống có hiểu biết chân chính để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Quan trọng nhất, người thầy phải biết rõ khả năng của từng học trò để dạy dỗ. Chính vì vậy, mỗi ý nghĩ, lời nói và hành động của thầy đều là bài học thiết thực về thân giáo, giúp học trò dễ dàng tiếp nối sự nghiệp đạo đức trí tuệ của thầy.

 

Người học trò đến với thầy cần phải chú tâm lắng nghe và tiếp nhận những điều thầy chỉ dạy. Khi chúng ta hiểu rõ được những lời dạy tâm huyết của thầy thì mỗi ý nghĩ, lời nói và hành động của ta, sẽ thể hiện tốt đạo đẹp đời qua mối quan hệ thầy trò.

 

Tuy nhiên chúng ta cần phải siêng năng hăng hái trong học tập, dù khó cách mấy cũng quyết tâm học cho đến nơi, đến chốn không bỏ cuộc nữa chừng. Đến khi thành tài, người học trò phải biết tôn trọng kính thờ thầy hết lòng. Ngày xưa, thầy được xếp trên cả cha mẹ, nếu chúng ta không kính trọng thầy, dù ở bất cứ hình thức nào, thì người học trò ấy chưa làm tròn bổn phận đối với thầy.

 

Người thầy có tâm và trách nhiệm thì sau khi dạy dỗ học trò thành tài, cần phải giới thiệu chỗ làm tốt và mở mang phát triển cơ sở mới. Một mặt để học trò có cơ hội trả ơn bằng cách dấn thân và đóng góp sự nghiệp trồng người được hoàn thiện về mọi mặt. Nhất là, khi phát hiện được tài năng của học trò, vị thầy cần gửi học trò đến các bậc thiện tri thức để tham học và được đào tạo thành các bậc hiền tài đức độ. Được như vậy, vị thầy mới làm tròn trách nhiệm của mình trong sự nghiệp trồng người cả hai mặt phước đức vẹn toàn.

 

Thực tế cho thấy, vai trò và trách nhiệm của những thầy cô giáo ở ngoài đời đã khó, huống gì làm bậc thầy mô phạm tâm linh lại càng phải khó hơn nhiều vì phải đi ngược lại dòng đời, nhưng không xa rời cuộc sống. Từ cách thức đi đứng, ăn nói và giao tiếp ứng xử phải luôn thể hiện sự an nhiên tự tại, để làm nơi nương tựa cho người học về sau.

 

Thực ra, tâm nguyện các bậc làm thầy đạo đức chân chính, luôn mong muốn dạy cho học trò mình mau thành nghề và không giấu nghề, cố gắng truyền trao hết cho đệ tử.

 

Để tình nghĩa thầy trò được gắn bó, thân thương và trong sáng, nhằm đem lại hoa trái tốt đẹp làm lợi ích cho cuộc đời, thì đòi hỏi tâm ý người dạy cũng như kẻ học, phải thực sự có tình thương yêu chân thật.

 

Sự thành công của người học trò sẽ là niềm khích lệ lớn lao đối với người thầy, vị thầy sẽ biết cách tán dương khen ngợi đúng lúc, để động viên an ủi người học trò của mình đạt được mục đích cao quý.

Người thầy có nhiệm vụ hướng cho người học sau khi thành thạo chuyên môn, phải có ý thức thăng tiến để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực nào đó mà bản thân họ được đào tạo. Tính chuyên môn cao sẽ tạo ra tính bền vững, phát triển lâu dài trong nghề nghiệp.

Mối quan hệ giữa trò đối với thầy

1- Chào thầy khi thầy đến.

2- Hầu hạ, săn sóc thầy.

3- Hăng hái học tập thầy.

4- Tự mình giúp đỡ thầy.

5- Phát huy trau dồi nghề nghiệp mà thầy trao truyền cho mình.

Sự thể hiện lòng tôn kính khi gặp thầy và chào thầy, chính là hình ảnh người học trò biết tôn kính thầy trong mọi lúc mọi nơi. Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” luôn nhắc nhỡ chúng ta biết báo ơn và đền ơn. Thầy phải tạo dấu ấn lớn trong tâm thức người học trò, trên mọi phương diện và ngược lại người trò phải hết sức tôn kính thầy, nhờ vậy mới tiếp thu hết những lời chỉ dạy của thầy, mà biết cách ứng dụng vào cuộc đời.

Kế đến, việc săn sóc thầy như là một trách nhiệm thiêng liêng qua việc “tôn sư trọng đạo”. Việc hầu hạ, săn sóc thầy mỗi khi cần thiết đã trở thành một công việc tự nguyện của người học trò.

Tóm lại, trong các mối quan hệ cuộc sống, mối quan hệ giữa thầy và trò, là mối quan hệ mật thiết tạo nên giềng mối đạo đức, nhằm giúp gia đình người thân và xã hội, đảm bảo an sinh đời sống tốt đẹp bền vững và lâu dài.

PHẬT DẠY ÂN NGHĨA LÀ GỐC CỦA CON NGƯỜI

 

Ân cha mẹ: Người con hiếu thảo là hết lòng cung kính và dưỡng nuôi cha mẹ dù bất cứ hoàn cảnh nào, cũng không nệ hà hay phiền trách. Ai luôn biết hiếu dưỡng với cha mẹ là người sống có nhân cách đạo đức, nên dễ thành công trên đường đời. Nếu chúng ta chỉ nuôi dưỡng cho cha mẹ bằng vật chất thì gọi là hiếu thế gian, còn những ai biết hướng dẫn cha mẹ quy hướng về Phật pháp, tin sâu nhân quả, tránh dữ làm lành là hiếu dưỡng cao thượng.

 

Nếu nói về hiếu gồm có 4 phương diện: hiếu dưỡng, hiếu tâm, hiếu hạnh và hiếu đạo.

 

Hiếu dưỡng: Nghĩa là cung kính dưỡng nuôi cha mẹ đầy đủ về phương diện vật chất từ thức ăn uống, chỗ ở cho đến thuốc thang mỗi khi bệnh hoạn hay những lúc già yếu. Người Phật tử chân chính nếu biết cúng dường Tam Bảo, làm từ thiện để giúp đỡ người khác thì trước tiên phải biết cung kính hiếu thảo với cha mẹ mình.

 

Hiếu tâm: Cung cấp và dưỡng nuôi cho cha mẹ là trách nhiệm và bổn phận của con cái. Tuy nhiên, không ít trường hợp người con báo hiếu cha mẹ không thật lòng, chẳng qua là vì hoàn cảnh bắt buộc. Cho nên, con cái cung kính hiếu thảo với cha mẹ, một lòng mong muốn cha mẹ được an vui, hạnh phúc gọi là hiếu tâm.

 

Hiếu hạnh: Báo hiếu nghĩa là một trách nhiệm thiêng liêng và cao quý của con cái, báo hiếu là truyền thống tốt đẹp, là một nếp sống đạo đức được truyền thừa lại cho con cháu. Nếu nói cho đúng nghĩa, báo hiếu là việc làm của người giác ngộ, của các vị Bồ-tát. Chính vì vậy, ai đã làm người phải xem việc báo hiếu là một nghĩa vụ thiêng liêng của đời mình.

 

Hiếu đạo: Con người ở đời nhờ ơn cha mẹ mà lớn lên, cho nên đạo lý làm người là phải biết nhớ ơn và đền trả công đức sinh thành của bậc song thân. Đây là đạo lý nền tảng giúp cho mọi người sống phải có ý thức trách nhiệm, về mọi hành vi đạo đức ở đời nhằm thăng hoa cuộc sống mà hoàn thiện chính mình, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

 

Một người con dù trai hay gái, phải biết báo đáp công ơn sanh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Việc báo hiếu đó phải thực hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần.

 

Báo hiếu phương diện vật chất: Những điều cần thiết mà người con cần phải phụng dưỡng cha mẹ là thức ăn, đồ mặc, chỗ ở, thuốc men, giải trí. Đặc biệt khi cha mẹ già yếu mất sức lao động thì con cái phải có trách nhiệm dưỡng nuôi cha mẹ. Tuy nhiên, việc làm ra của cải vật chất để phụng dưỡng cha mẹ bằng đôi bàn tay và khối óc của mình một cách lương thiện. Trong kinh Phật dạy: “Người con vì cha mẹ mà làm các điều xấc ác để báo hiếu cho cha mẹ, người ấy sẽ bị đọa lạc vào chỗ thấp kém.

 

Báo hiếu phương diện tinh thần: Theo đạo Phật, báo hiếu về phương diện tinh thần không chỉ đơn thuần là làm cho cha mẹ luôn được vui vẻ, hạnh phúc, mà còn phải hướng cha mẹ tin sâu nhân quả, dứt ác làm lành, biết buông xả và sống đời bình yên, hạnh phúc.

Ân thầy bạn: giúp ta mở rộng kiến thức, thầy dạy cho ta biết đọc, biết viết, biết ăn ở hiền lành phải đạo làm người, biết những điều hay lẽ phải, cốt để làm cho mình trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Cho nên ngạn ngữ có câu: ”Không thầy đố mầy làm nên“.

Chẳng những thầy dạy cho ta hiểu biết mà còn dạy cho ta biết nghiệm xét, suy tư quán chiếu làm cho trí tuệ phát sinh, để chúng ta có thể thấy biết đúng như thật, mọi vấn đề của sự sống.

Nhờ có thầy luôn khuyến khích, nhắc nhỡ, chỉ dạy, chính vì vậy mà chúng ta được động viên an ủi khi buồn vui, giúp ta vượt qua mọi chướng duyên nghịch cảnh để làm mới lại chính mình bằng trái tim thương yêu và hiểu biết.

Ân Tam bảo: Đối với Phật-Pháp-Tăng là ba ngôi quý báu, hiếm có khó được nên người Phật tử có những trọng ân như sau:

Ân Phật Bảo: Khổ đau của chúng sinh do già bệnh chết chi phối, làm cho người ta phải tái sinh luân hồi sống chết không có ngày thôi dứt, khi thì hưởng phước báu cõi trời người, khi thì bị đọa ba đường ác địa ngục, quỷ đói, súc sinh. Bồ-tát Sĩ Đạt Ta đã tìm ra con đường giải thoát mọi ràng buộc khổ đau đó, bằng sự tu chứng của chính mình, là người Phật tử chân chính chúng ta phải nhớ đến ân đức của Ngài:

Ai đã làm được như Phật? Ngài đã dám lìa bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, bỏ thần dân thiên hạ để đi tìm con đường giác ngộ, giải thoát hoàn toàn giúp cho mình và người, biết cách thoát ra khỏi khổ đau sinh, già, bệnh, chết.

Trước khi thành đạo đức Phật đã năm năm tu với hai vị thiền sư nỗi tiếng thời bấy giờ nhưng không đạt được mục đích giác ngộ, giải thoát nên Ngài từ giã ra đi. Rồi Ngài tự tu sáu năm khổ hạnh nơi rừng già cùng với nhóm ông Kiều Trần Như, nhịn đói, chịu rét trong chốn rừng già hiu quạnh, thậm chí có ngày chỉ ăn một hạt mè hay hạt bắp.

Thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh: Sau khi từ bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan, Ngài quay trở về lối tu trung đạo, không lợi dưỡng, không ép xác, ăn vừa đủ no ngày một bữa, tham thiền và chứng đắc Phật quả chấm dứt khổ đau sống chết. Ngài thấy chúng sinh trôi lăn trong ba cõi sáu đường đều do mình tạo ra, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, không ai có khả năng ban phước hay giáng họa! Ngài đem chân lý do tu chứng và thấy biết đúng như thật, chỉ dạy lại cho mọi người tu tập để được giải thoát luân hồi sinh tử.

Ân Pháp bảo: Nhờ có kinh điển lưu truyền đến ngày nay chúng ta mới biết giáo lý của đạo Phật, do đó Pháp bảo chỉ cho chúng ta hiểu được cuộc đời là vô thường giả tạm, bởi yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý khổ và vô vàn nỗi khổ niềm đau khác.

Chỉ dạy phương pháp tu học: Người xuất gia muốn giác ngộ, giải thoát xa lìa sinh tử Phật chỉ dạy pháp tứ Thánh đế diệt khổ, pháp tu thành Phật. Người tại gia do còn gia đình người thân nên Phật dạy quy hướng Tam bảo, giữ năm giới, tu mười điều thiện, hành Bồ-tát đạo cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.

Bình đẳng tu chứng: Đức Phật trước kia là một con người lịch sử giống như tất cả mọi người chúng ta, Ngài cũng được sinh ra từ bụng mẹ, vẫn hưởng thụ ngũ dục như mọi người, nhưng do quyết tâm lìa bỏ nên đã tu chứng thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta cũng là con người, nếu cố gắng buông xả hết mọi vọng niệm và gieo trồng phước đức đầy đủ, thì cũng sẽ có ngày thành Phật viên mãn.

Để tạo sự an lạc cho tất cả mọi người, đem lại hòa bình cho thế giới, Phật dạy chúng ta hãy tin sâu nhân quả, tránh dữ làm lành, phát triển tâm từ bi rộng lớn thương yêu bình đẳng, không phân biệt người thân hay kẻ thù.

Ân Tăng bảo: Tăng là những người đã lìa bỏ gia đình, là đoàn thể sống an vui hạnh phúc, vừa học, vừa tu, vừa dấn thân truyền bá giáo lý Phật đà nên ân này rất to lớn.

Duy trì chánh pháp: Những vị Tăng tu hành giữ gìn giới luật tinh nghiêm, từ bỏ ngũ dục lạc thế gian để sống đời đơn giản đạm bạc, muốn ít biết đủ và từ bi trí tuệ làm cho giáo lý Phật đà tồn tại ở thế gian, nhờ đó chúng ta mới biết đạo Phật, biết phương pháp tu học giác ngộ, giải thoát.

Thay Phật hóa độ chúng sinh: Tăng là những vị có nhiệm vụ truyền trì Phật pháp, đem giáo lý nhân quả làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, do mình là chủ nhân của bao điều họa phúc và kế thừa sự nghiệp đức Phật để giáo hóa cho mọi người tu học.

Truyền trao giới pháp: Chúng ta muốn phát tâm cầu học đạo từ bi và trí tuệ trước tiên phải quy y Tam Bảo, phát nguyện giữ từ một giới cho đến khi nào giữ tròn năm giới viên mãn, chính những vị Tăng sẽ thay Phật truyền trao giới pháp này, giúp cho chúng ta tu học bền vững và lâu dài.

Ngoài những ân như cha mẹ, ân thầy tổ, ân Tam bảo, còn có một ân nữa là ân quốc gia xã hội.

Ân Quốc gia xã hội: Chúng ta sống trong một đất nước, sống yên ổn, ấm no và hạnh phúc, không bị chiến tranh là nhờ quốc gia và xã hội góp phần duy trì và gìn giữ, cho nên chúng ta đã thọ những ân nghĩa như sau:

Làm tròn bổn phận công dân: Trước tiên là một công dân là phải đóng góp vào việc giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, sự độc lập của quốc gia, dân tộc, góp phần bảo vệ các quyền lợi chánh đáng của người dân. Phát huy sáng tạo kỹ nghệ, kinh doanh thương mại làm cho đất nước ngày càng phát triển hưng thịnh, bền vững và lâu dài.

Phát huy văn hóa và bảo vệ những truyền thống tốt đẹp dân tộc: Người Phật tử cũng là một công dân, có bổn phận gìn giữ phát huy nền văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, một đất nước có trên bốn ngàn năm lịch sử văn hiến, và lấy đạo thờ ông bà tổ tiên làm nền tảng, kết hợp với tâm linh Phật giáo để duy trì di sản văn hóa ông cha ta để lại, chúng ta cần phải gìn giữ và phát huy thêm những truyền thống tốt đẹp đó.

Những truyền thống tốt đẹp đó, như thời cực thịnh của Phật giáo đời Trần đã 3 lần đánh đuổi quân xâm lược Mông Cổ, 1000 năm không bị đồng hóa và lệ thuộc nước Tàu, cùng với 100 năm Pháp thuộc, người Việt Nam luôn nêu cao tinh thần dân tộc, giữ gìn biên cương bờ cõi, bảo toàn độc lập và giữ trọn vẹn bản sắc văn hóa tốt đẹp con Rồng cháu Tiên.

Giữ vẹn biên cương bờ cõi, bảo toàn độc lập: Nhờ có quốc gia giữ gìn, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và bảo toàn sự trọn vẹn về độc lập. Một đất nước nếu bị mất chủ quyền, mất độc lập thì dân chúng sẽ bị sưu cao, thuế nặng, làm lụng vất vả mà không có quyền bình đẳng về con người.

Nhờ sự đồng lòng tích cực của toàn dân mỗi người đều có trách nhiệm công ăn việc làm riêng, hòa hợp trở lại để cùng đảm bảo an sinh đời sống cho tất cả mọi người. Một người dù có tài giỏi đến đâu, cũng không thể nào làm đủ những nhu cầu cần thiết cho chính bản thân mình tiêu dùng trong ăn, mặc, ngũ nghĩ và làm việc.

Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm gạo ăn, ta không nuôi tằm dệt vải nhưng vẫn có quần áo để mặc, rồi tất cả những nhu cầu khác cũng lại như thế, chúng ta đều nương nhờ lẫn nhau để bảo tồn mạng sống. Xã hội đã phân công cho mỗi người một nghề, một trách nhiệm để làm một công việc nhằm đáp ứng các nhu cầu cần thiết để cho con người, đảm bảo an sinh đời sống tốt đẹp.

Tóm lại, vâng theo Phật dạy tất cả chư Tăng, Ni là những người có nhiệm vụ quan trọng và cao cả, kế thừa sự nghiệp duy trì chánh pháp được lưu bố rộng khắp nhân gian, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho tất cả mọi người dứt ác làm lành để sống đời bình yên, hạnh phúc.

Còn người Phật tử tại gia, có trách nhiệm hộ trì Tam bảo được trường tồn ở thế gian này, để giúp cho chư Tăng, Ni có thời gian tu học đến nơi đến chốn để dấn thân đóng góp từ thiện và giáo dục tâm linh, với tinh thần “tốt đạo đẹp đời”. Chúng ta tu học theo hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm luôn  đồng hành, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, đem niềm vui đến với mọi người và sẵn sàng san sẻ nỗi khổ niềm đau, với tấm lòng vô ngã, vị tha.

 

 

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập