Cây Vô ưu và Hoa ưu đàm trong kinh nhà Phật - Phần 3

Đã đọc: 4474           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Cây Sung hay cây Ưu Đàm là một trong những cây dược thảo đã đề cập trong tất cả các kinh điển cổ xưa của y học Ấn Độ (Ayurveda). Rễ, vỏ cây, trái, lá và nhựa của Ưu đàm có giá trị chữa bệnh rất lớn, được sử dụng bên trong cũng như bên ngoài đối với cơ thể con người

Cây Sung hay cây Ưu Đàm, theo các nhà thực vật học trên thế giới thì cây sung có nguồn gốc từ Châu Á và được trồng rất phổ biến ở các nước của bán đảo Đông dương. Xưa nay nhiều người cho rằng, tên gọi của cây Sung không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng cho sự sung mãn, mà còn có thể mang lại nhiều vọng ước cho của người nông dân nghèo trồng nó.

Bảng phân loại khoa học của cây Sung :

Giới: Plantae.

Nghành : Magnoliophyta.

Hạng : Magnolipsida.

Bộ: Urticales.

Họ: Moraceae.

Chi : Ficus.

Loài: F. racemosa.

Theo  PHYTOPHARMACOLOGICAL PROPERTIES OF FICCUS RACEMOSA LINN - AN OVERVIEW của Baby Joseph, S.Justin Raj. Interdisciplinary Research Unit, Departmentof Biotechnology, Malankara Catholic College, Mariagiri, K.K District, có ghi thành phần hóa học chung của cây Sung (F. racemosa) như sau :

Rễ: Cycloartenol, Euphorbol, Hexacosanoate, Taraxerone, Tinyatoxin.

Vỏ: Euphorbol, Hexacosanate, Ingenol, Triacetate, Taraxerone.

Thân cây : Campesterol, Hentriacontane, Hentriacontanol, Kaempferol, Stigmasterol, Methyl ellagic acid.

Lá : Tetra triterpene, Glauanol acetate, Racemosic acid.

Trái : Glauanol, Hentriacontane, β sitosterol, Glauanolacetate, Glucose, Tiglic acid, Esters của taraxasterol, Lupeolacetate, Friedelin, Higher hydrocarbons và những phytosterol khác.

Nhựa: A-amyrin, β-sitosterol, Cycloartenol, Cycloeuphordenol, 4-deoxyphorbol và chất esters của nó, Euphol, Euphorbinol, Isoeuphorbol, Palmitic acid, Taraxerol, Tinyatoxin, Tirucallol, Trimethyl ellagic acid.

Thành phần hóa học của vỏ cây Sung trong y học có chứa : Tannin, wax,

saponin gluanol acetate, β-sitosterol, leucocyanidin- 3 – O– β – D - glucopyrancoside, leucopelargonidin – 3 – O – β– D - glucopyranoside, leucopelargonidin – 3 – O – α – L -rhamnopyranoside, lupeol, ceryl behenate, lupeol acetate, α-amyrin acetate, leucoanthocyanidin, leucoanthocyanin, lupeol, β-sitosterol, stigmasterol.

Udumbara, cây Sung hay cây Ưu Đàm là cây thiêng liêng được dùng trong các nghi lễ cúng bái Thượng đế Dattaguru (Đấng sáng tạo thiên nhiên trong vũ trụ). Udumbara có những từ đồng nghĩa khác nhau như : yajnanga, yajniya, yajnayoga, yajnyasara.

Cây Sung hay cây Ưu Đàm là một trong những cây dược thảo đã đề cập trong tất cả các kinh điển cổ xưa của y học Ấn Độ (Ayurveda). Rễ, vỏ cây, trái, lá và nhựa của Ưu đàm có giá trị chữa bệnh rất lớn, được sử dụng  bên trong cũng như bên ngoài đối với cơ thể con người.

Chất nhựa của cây Ưu Đàm hay cây Sung được áp dụng trên da, ở dạng dán, để làm mịn làn da, và chống sưng. Các tinh chất chiết ra từ trong lá  dùng để rửa các vết thương cho sạch và nuôi dưỡng da trong thời gian điều trị. Các tinh chất chiết ra từ vỏ cây dùng làm nước súc miệng hiệu quả trong lúc bị viêm miệng hay đau cổ họng…

Phạm vi ứng dụng của Lá, quả, nhựa, vỏ cây sung được dùng chữa những bịnh bên trong cơ thể con người được biết như : Lợi tiểu, Tiêu đàm, Tiêu chảy và sát trùng, Kiết lỵ, Vết thương mãn tính, Viêm hạch cổ tử cung, Suy nhược tình dục, Hen suyễn, Phụ nữ ít sữa hay tắc tia sữa, Nhức răng…

Cây Sung có nguồn gốc từ các quốc gia như : Úc, Ấn độ, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc, Nepal, New Guinea, Pakistan, Sri Lanka, và vùng Địa Trung Hải có một loài sung dạng bụi (Ficus carica L.), cao chừng 3-4 m, quả vị có vị ngọt, phơi khô có hương vị như chà là. Sung là loại cây thân gỗ lớn, có tán lá rậm, màu lá xanh bóng, cho nên người ta thường trồng nó để che mát.

Quả mọc thành chùm trên các cành hay trên thân cây. Vỏ thân cây, nhẵn, màu nâu xám bóng. Hoa có hai loại đực và cái. Hoa thường ra khoảng tháng 5 cho tới tháng 7. Hoa lớn dần, vỏ từ màu xanh chuyển sang màu đỏ thẫm, chín và rụng rất nhanh. Khi hoa nở, tỏa mùi hương thơm ngọt lịm, làm cho các loài côn trùng, tìm cách chui vào bên trong hút mật. Do đó đôi khi cắt quả sung chín ra làm hai, người ta thường thấy có số côn trùng còn nằm trong quả. Trái sung, thật ra đó là quả giả. Bởi vì, bên ngoài của nó là một đế hoa, mà trong đó mọc tua tủa những cánh hoa li ti được khép kín lại với nhau thành hình tròn bầu bĩnh, trông giống như quả.

Ở Việt Nam có nhiều loại sung khác nhau và được người ta đặt tên như : Sung vè, Sung xanh, Sung nòi… Tuy Sung mọc ở những nơi hoang dã, trên các triền núi cao, hay trong rừng sâu, hoặc các vùng đồng bằng sông nước. Nhưng ngày nay, người ta có thể nhân giống nó, bằng hạt hoặc bằng cách chiết cành, dâm cành để tạo ra cây con. Cây sung là một loài cây có dáng thân rất đẹp, giống như những cây cổ thụ, cho nên những người thích chơi cây cảnh biến nó thành Bonsai để chưng chơi.

Theo quan niệm từ Sung gần với sung túc, do đó người ta chọn Sung làm biểu tượng của sự no đủ, tốt lành, cũng như ý nghĩa của hoa Mai là biểu trưng cho sự may mắn.

Từ sự ứng dụng đa dạng của cây sung đã có lịch sử lâu đời, trong cuộc sống nhân loại, được biết qua nhiều lãnh vực, và ý nghĩa tâm linh của những âm Hán Việt : Ưu đàm ba la, Ô đàm bát la, Uất đàm, Ưu đàm, Ưu đàm bát hoa, Ưu đàm Bạt La Hoa, hay Hoa Ưu đàm, mà Phạn ngữ gọi là Udumbara, उदुम्बर, danh pháp khoa học : Ficus racemosa. Việt dịch : Cây sung.

Ưu đàm bát hoa này đã đi vào tâm thức của người tu Phật và đã tạo nên biểu tượng cho điềm xuất thế hy hữu của một Đức Phật tương lai ở thế gian này, theo tinh thần Phật học. Bản chất biểu tượng tinh tế của Ưu Đàm được sử dụng trong kinh Pháp Hoa là để so sánh sự xuất hiện độc đáo của  một loài hoa thiên với sự xuất hiện phổ biến của một Bậc thánh nhân đã đạt được sự giác ngộ và giáo lý của Ngài trên thế giới, mà người thưởng ngoạn phải thật để tâm, mới có thể thấy được ý nghĩa này, qua những phần trích đoạn trong các Phẩm Phương tiện, Phẩm Hóa thành Dụ Phẩm, Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự, do Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh chuyễn ngữ.

Phần trích đoạn trong Phẩm Phương tiện :

Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi.

Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Mang lòng tăng-thượng-mạng

Cận-sự-nam ngã mạn

Cận-sự-nữ chẳng tin,

Hàng bốn chúng như thế

Số kia có năm nghìn

Chẳng tự thấy lỗi mình

Nơi giới có thiếu sót

Tiếc giữ tội quấy mình

Trí nhỏ đó đã ra,

Bọn cám tấm trong chúng

Oai đức Phật phải đi,

Gã đó kém phước đức

Chẳng kham lãnh pháp này,

Chúng nay không cành lá

Chỉ có những hột chắc

Xá-Lợi-Phất khéo nghe!

Pháp của các Phật được

Vô lượng sức phương tiện

Mà vì chúng sanh nói.

Tâm của chúng sanh nghĩ

Các món đạo ra làm

Bao nhiêu những tánh dục

Nghiệp lành dữ đời trước

Phật biết hết thế rồi

Dùng các duyên thí dụ

Lời lẽ sức phương tiện

Khiến tất cả vui mừng.

Hoặc là nói Thế kinh

Cô khởi cùng Bổn-sự.

Bổn-sanh, Vị-tằng-hữu

Cũng nói những nhân duyên

Thí dụ và Trùng tụng

Luận nghị cộng chín kinh.

Căn độn ưa pháp nhỏ.

Tham chấp nơi sanh tử

Nơi vô lượng đức Phật

Chẳng tu đạo sâu mầu

Bị các khổ não loạn

Vì đó nói Niết-bàn.

Ta bày phương tiện đó

Khiến đều vào huệ Phật,

Chưa từng nói các ông

Sẽ được thành Phật đạo

Sở dĩ chưa từng nói

Vì giờ nói chưa đến,

Nay chính là đến giờ

Quyết định nói Đại-thừa.

Chín bộ pháp của ta

Thuận theo chúng sanh nói

Vào Đại-thừa làm gốc

Nên mới nói kinh này.

Có Phật tử tâm tịnh

Êm dịu cũng căn lợi,

Nơi vô lượng các Phật

Mà tu đạo sâu mầu,

Vì hàng Phật tử này

Nói kinh Đại-thừa đây.

Ta ghi cho người đó

Đời sau thành Phật đạo

Bởi thâm tâm niệm Phật

Tu trì tịnh giới vậy

Hạng này nghe thành Phật

Rất mừng đầy khắp mình,

Phật biết tâm của kia.

Nên vì nói Đại-thừa.

Thanh-văn hoặc Bồ-Tát,

Nghe ta nói pháp ra

Nhẫn đến một bài kệ

Đều thành Phật không nghi.

Trong cõi Phật mười phương

Chỉ có một thừa pháp

Không hai cũng không ba

Trừ Phật phương tiện nói

Chỉ dùng danh tự giả

Dẫn dắt các chúng sanh

Vì nói trí huệ Phật.

Các Phật ra nơi đời

Chỉ một việc này thực

Hai thứ chẳng phải chơn.

Trọn chẳng đem tiểu thừa

Mà tế độ chúng sanh,

Phật tự trụ Đại-thừa

Như pháp của mình được

Định, huệ, lực trang nghiêm

Dùng đây độ chúng sanh.

Tự chứng đạo vô thượng

Pháp bình-đẳng Đại-thừa

Nếu dùng tiểu thừa độ

Nhẫn đến nơi một người

Thời ta đọa sân tham

Việc ấy tất không được,

Nếu người tin về Phật

Như-Lai chẳng dối gạt

Cũng không lòng tham ghen

Dứt ác trong các pháp

Nên Phật ở mười phương

Mà riêng không chỗ sợ.

Ta dùng tướng trang nghiêm

Ánh sáng soi trong đời

Đấng vô lượng chúng trọng

Vì nói thực tướng ấn

Xá-Lợi-Phất! nên biết

Ta vốn lập thệ nguyện

Muốn cho tất cả chúng

Bằng như ta không khác,

Như ta xưa đã nguyện

Nay đã đầy đủ rồi

Độ tất cả chúng sanh

Đều khiến vào Phật đạo

Nếu ta gặp chúng sanh

Dùng Phật đạo dạy cả

Kẻ vô trí rối sai

Mê lầm không nhận lời.

Ta rõ chúng sanh đó

Chưa từng tu cội lành

Chấp chặt nơi ngũ dục

Vì si ái sinh khổ,

Bởi nhân duyên các dục.

Sanh vào ba đường dữ

Xoay lăn trong sáu nẻo

Chịu đủ những khổ độc

Thân mọn thọï bào thai

Đời đời tăng trưởng luôn

Người đức mỏng ít phước

Các sự khổ bức ngặt

Vào rừng rậm tà kiến

Hoặc chấp có, chấp không

Nương gá các chấp này

Đầy đủ sáu mươi hai

Chấp chặt pháp hư vọng

Bền nhận không bỏ được

Ngã mạn tự khoe cao

Dua nịnh lòng không thực

Trong nghìn muôn ức kiếp

Chẳng nghe danh tự Phật

Cũng chẳng nghe chánh pháp

Người như thế khó độ.

Cho nên Xá-Lợi-Phất!

Ta vì bày phương tiện

Nói các đạo dứt khổ

Chỉ cho đó Niết-bàn

Ta dầu nói Niết-bàn

Cũng chẳng phải thật diệt,

Các pháp từ bổn lai

Tướng thường tự vắng lặng

Phật tử hành đạo rồi

Đời sau được thành Phật

Ta có sức phương tiện

Mở bày khắp ba thừa.

Tất cả các Thế-Tôn

Đều nói đạo nhất thừa

Nay trong đại chúng này

Đều nên trừ nghi lầm

Lời Phật nói không khác

Chỉ một, không hai thừa.

Vô số kiếp đã qua

Vô lượng Phật diệt độ

Trăm nghìn muôn ức Phật

Số nhiều không lường được.

Các Thế-Tôn như thế

Các món duyên thí dụ

Vô số ức phương tiện

Diễn nói các pháp tướng,

Các đức Thế-Tôn đó

Đều nói pháp nhất thừa

Độ vô lượng chúng sanh

Khiến vào nơi Phật đạo

Lại các đại-Thánh-chúa

Biết tất cả thế gian

Trời người loài quần sanh

Thâm tâm chỗ ưa muốn

Bèn dùng phương tiện khác

Giúp bày nghĩa đệ nhất.

Nếu có loài chúng sanh

Gặp các Phật quá khứ

Hoặc nghe pháp bố thí

Hoặc trì giới nhẫn nhục

Tinh tấn, thiền, trí thảy

Các món tu phước huệ,

Những người như thế đó

Đều đã thành Phật đạo

Sau các Phật diệt độ

Nếu người lòng lành dịu

Các chúng sanh như thế

Đều đã thành Phật đạo

Các Phật diệt độ rồi

Người cúng dường xá-lợi

Dựng muôn ức thứ tháp

Vàng, bạc và pha-lê

Xa-cừ cùng mã-não

Ngọc mai khôi, lưu ly

Thanh tịnh rộng nghiêm sức,

Trau giồi nơi các tháp,

Hoặc có dựng miếu đá

Chiên-đàn và trầm-thủy

Gỗ mật cùng gỗ khác

Gạch ngói bùn đất thảy,

Hoặc ở trong đồng trống

Chứa đất thành miếu Phật

Nhẫn đến đồng tử giỡn

Nhóm cát thành tháp Phật,

Những hạng người như thế

Đều đã thành Phật đạo.

Nếu như người vì Phật

Xây dựng các hình-tượng

Chạm trổ thành các tướng

Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc dùng bảy báu làm

Thau, đồng bạch, đồng đỏ

Chất nhôm cùng chì kẽm

Sắt, gỗ cùng với bùn

Hoặc dùng keo, sơn, vải

Nghiêm sức làm tượng Phật

Những người như thế đó

Đều đã thành Phật đạo

Vẽ vời làm tượng Phật

Trăm tướng phước trang nghiêm

Tự làm hoặc bảo người

Đều đã thành Phật đạo.

Nhẫn đến đồng tử giỡn

Hoặc cỏ cây và bút

Hoặc lấy móng tay mình

Mà vẽ làm tượng Phật

Những hạng người như thế

Lần lần chứa công-đức

Đầy đủ tâm đại bi

Đều đã thành Phật đạo

Chỉ dạy các Bồ-Tát

Độ thoát vô lượng chúng.

Nếu người nơi tháp miếu

Tượng báu và tượng vẽ


Còn tiếp
Kính bút
TS Huệ Dân

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

5.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập