Tầm Quan Trọng Của Tính Triết Lý Trong Nghiên Cứu Tôn Giáo

Đã đọc: 2942           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Nếu hiểu được triết lý đó và tự hỏi “tại sao nó nói về điều đó?” khi suy ngẫm cuộc sống hằng ngày của mình và cách mà chủ thể—tâm mình—giải thích đối tượng—thế giới cảm giác—và cách mình hiên hệ với nó, thì bạn sẽ thấy rằng tính quyết đoán đầy triết lý của Phật giáo như vậy là rất đúng đắn.

          Chấp thủ xem những mối quan hệ là hạnh phúc, nhưng nếu dùng trí tuệ hiểu biết để quán sát, thì bạn sẽ nhận thấy chúng là khổ đau thực sự. Tại sao? Bởi vì chúng dẫn tới kết quả khổ đau. Chúng ta nghỉ rằng những thú vui trần tục là hạnh phúc nên áp dụng thân tâm của mình cho sự hưởng lạc, nhưng trên thực tế, thân tâm chúng ta là bản chất của khổ đau. Tại sao? Bởi vì chúng khiến chúng ta chịu đựng khổ đau. Đó là lý do tại sao văn học Phật giáo, đặc biệt là trường phái Tiểu thừa, nhấn mạnh rằng các pháp thay đổi và tạm thời là bản chất của khổ đau.

          Nếu hiểu được triết lý đó và tự hỏi “tại sao nó nói về điều đó?” khi suy ngẫm cuộc sống hằng ngày của mình và cách mà chủ thể—tâm mình—giải thích đối tượng—thế giới cảm giác—và cách mình hiên hệ với nó, thì bạn sẽ thấy rằng tính quyết đoán đầy triết lý của Phật giáo như vậy là rất đúng đắn.

          Chúng ta nên có một số hiểu biết về triết học. Nhiều người phương Tây tiếp cận với quan điểm Phật giáo và nghỉ rằng “đầy đủ tính triết lý. Tôi không thích lý luận. Tất cả những gì tôi muốn làm là thực tập”. Họ đang mơ. Chính chấp thủ là triết học—bạn vốn sinh ra đồng thời với nó. Bạn đã không học hỏi chấp thủ của mình ở trường hoặc từ người khác; bạn sinh ra đời là một nhà triết học. Đừng nghỉ rằng triết học xuất phát từ những quyển sách, giống như bạn đọc được một số điều và cho rằng “bây giờ, tôi biết một số điều và tôi là triết gia”.

          Con người cần đến triết học. Cơ Đốc giáo[1] cổ đại và thế giới phương Tây đã có triết học không tưởng[2]. Tuy nhiên, sau đó, con người đã gặp phải khó khăn bởi vì tôn giáo và triết học thường mâu thuẫn lẫn nhau—nên một số người đã từ bỏ tôn giáo và số khác lại từ bỏ triết học.

          Do đó, ngày nay, tôn giáo hầu như tách rời khỏi triết học bởi vì nhiều người nghỉ rằng những lời dạy của tôn giáo là sai lầm vì chúng mâu thuẩn với khoa học. Thực chất, Cơ Đố giáo bao hàm tính triết lý vô cùng xác đáng có giá trị đích thực quan trọng trong cuộc sống của chúng ta, nhưng chỉ vì con người không hiểu.

          Như tôi đã nói, nhiều người cho rằng họ chỉ muốn thực tập thiền và không muốn thực hiện bất cứ điều gì với triết học nhưng họ sai lầm; tất cả chúng ta cần đến triết học. Triết học cho chúng ta một bức tranh nguyên vẹn và trong phạm vi đó chúng ta có thể phân biệt rõ cách năng lực của mình đang tuôn chảy. Nếu không có một số triết lý tổng quát và có thái độ “cái gì đến, sẽ đến; cái gì đi, sẽ đi”, thì loại tư tưởng lập dị đó là sai lầm. Chúng ta phải có một số hiểu biết, nếu không, chúng ta sẽ bị thất bại.

          Thế giới này là một căn nhà chứa đựng qua nhiều mê tín, quá nhiều triết lý cùn mà nếu không có một triết lý chính xác, sự hiểu biết đúng đắn, thì trước hết bạn sẽ bị cuốn hút theo một chiều hướng, sau đó là chiều hướng khác bởi những gì bạn nghe thấy. Một số người nói “điều này” và bạn bảo “vâng, vâng, vâng” ròi chạy theo điều đó; số khác lại nói “điều kia” và bạn bảo “vâng, vâng, vâng” rồi bạn tức tốc chạy theo điều ấy. Bạn mất phương hướng, không có sự hiểu biết chính xác. Tuy nhiên, bạn cần phải có phương hướng và hiểu biết, nếu không, thì nó rất nguy hiểm. Nếu không có một triết lý có thể giúp bạn nhận định rõ giữa cái đúng và cái sai—đâu là thái độ đúng đắn, đâu là thái độ sai lầm—nếu không có trí tuệ nhận thức sáng suốt để phân định rõ giữa tích cực và tiêu cực, thì bạn sẽ không biết mình kết thúc ở đâu. Đó là lý do tại sao tôi nói nó rất nguy hiểm.

          Gần đây, tôi đã xem một bộ phim bắt nguồn từ Ấn Độ—bạn cũng đã từng xem nó—nơi mà một chàng trai đang mưu cầu những hiểu biết nên đi đến gặp một hành giả Du-già nhờ hướng dẫn và được chấp nhận, thay vào đó, quan niệm sai lầm rằng nếu giết đủ 100 người thì anh ta sẽ đạt được những hiểu biết nội tại và được giải thoát. Tin tưởng vào lời khuyên sai lầm này, anh ta đi ra ngoài và giết rất nhiều người, chặt mỗi người một ngón tay, rồi kết thành vòng hoa đeo vào cổ. Do vậy, anh ta được gọi là Angulimala[3]. Đây không phải là câu chuyện ở Tây Tạng, mà là chuyện kể xuất phát từ Ấn Độ trong thời đại của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

          Bằng trí tuệ của mình, đức Phật đã thấy rõ Angulimala đã giết 999 người và đang tìm kiếm nạn nhân thứ 100, vì thế, Ngài đi đến chỗ của Angulimala và xuất hiện trên con đường trước mặt anh ta. Nhìn thấy nạn nhân cuối cùng của mình, Angulimala liền chạy về hướng đức Phật, nhưng mặc dù đức Phật đi rất chậm, và bất kể chạy nhanh thế nào, anh ta cũng không thể đuổi kịp đức Thế Tôn. Hết cách, điều này đã khiến anh phản tỉnh những gì mình đang làm và dần dần nhận thức cách mình đã thực hiện là sai lầm. Anh ta thệ nguyện không bao giờ thực hiện những hành động như vậy nữa, trở thành một vị Tu sĩ Phật giáo và cuối cùng đã chứng đắc quả vị A-la-hán.

          Do đó, rất nguy hiểm nếu bạn không có một sự hướng dẫn tốt dựa trên triết lý và chấp nhận bất cứ điều gì người ta nói chỉ có gía trị bên ngoài. Bạn phải cẩn thận. Những người theo Phật giáo Đại thừa ở Tây Tạng rất quan tâm đến điều này. Bạn phải quan sát chính mình. Ở phương Tây, có nhiều cuộc hành trình mà bạn có thể bị cuốn hút vào trong đó; có hàng ngàn thứ đang diễn ra. Tất nhiên, có một số điều tốt, những điều thú vị, nhưng cũng có nhiều điều vô bổ, và đó là những gì nguy hiểm. Hãy hết sức cẩn thận.

          Đó là lý do tại sao chúng tôi luôn luôn nói rằng phải nắm bắt con đường “trung đạo”[4] và tránh xa hai thái cực đánh giá quá cao và đánh giá quá thấp. Chúng ta phải nắm bắt con đường trung đạo. Để thực hiện điều đó, chúng ta phải hiểu rõ những con đường sai lầm—cách mà tâm mình đánh giá quá cao và đánh giá quá thấp về các pháp. Chúng ta phải luôn luôn quán chiếu, và để thực hiện điều đó, chúng ta cần phải phát triển trí tuệ nhận thức phân biệt nhằm biết rõ cách tâm mình đang vận hành.

 



[1] Cơ Đốc giáo (thuật ngữ Hán-Việt) là một trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham. Abraham là tổ phụ của dân Do Thái và dân Ả Rập (hai tôn giáo còn lại là Do Thái giáoHồi giáo), đặt nền tảng trên giáo huấn, sự chết trên thập tự giásự sống lại của Chúa Giêsu như được ký thuật trong Kinh thánh Tân Ước. Kitô hữu tin rằng Giêsu là con của Thiên Chúa và là Đấng Messiah của người Do Thái như đã được tiên báo trong Kinh thánh Cựu Ước. Là độc thần giáo (monotheistic), hầu hết Kitô hữu (Cơ Đốc nhân) tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong 3 thân vị (tiếng Hi Lạp: hypostasis) gọi là Ba Ngôi. Kitô giáo bao gồm nhiều truyền thống tôn giáo với các dị biệt văn hóa cũng như hàng ngàn xác tíngiáo phái khác nhau. Trải qua hai thiên niên kỷ, Kitô giáo tự hình thành nên ba nhánh chính: Công giáo Roma, Chính Thống giáo Đông phươngKháng Cách (Protestantism). Tính chung, đây là tôn giáo lớn nhất thế giới với hơn 2,1 tỉ tín hữu (chiếm khoảng 34% dân số thế giới).

 

22.Triết học không tưởng còn được gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng, là một từ dùng để chỉ những làn tư tưởng xã hội hiện đại đầu tiên. Mặc dù, theo đúng nghĩa mà nói, mọi người sống tại bất kỳ một thời điểm lịch sử nào đều có thể là người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng, từ này thường được dùng nhất để chỉ những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng trong hai mươi lăm năm đầu tiên của thế kỷ 19. Từ giữa thế kỷ 19 trở đi, những nhánh khác của chủ nghĩa xã hội đã vượt trội hơn so với phiên bản không tưởng về mặt phát triển trí tuệ và số người ủng hộ. Những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành những phong trào hiện đại cho cộng đồng định trước và các tổ chức hợp tác.

Chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời từ khi con người có ý thức. Nó thể hiện qua câu truyện cổ tích, sử thi. Nó thể hiện khát vọng công bằng, tự do, khát vọng chinh phục tự nhiên. Nó còn đóng góp việc hình thành tôn giáo. Tuy vậy theo Engels thì chủ nghĩa này vẫn chưa chín muồi vì những lý luận chưa chín muồi đó chính là phù hợp với tình trạng chưa chín muồi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi.

Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán sâu sắc chủ nghĩa tư bản và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, nó không thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản, không vạch ra được con đường giải phóng nhân dân lao động và phủ nhận đấu tranh giai cấp. 

 

[3] Angulimala: Là một tên cướp khét tiếng trong thời đại của đức Phật. Anh ta là người theo học với một vị thầy Bà-la-môn, nhưng sau này được đức Phật hóa độ và trở thành đệ tử đắc lực của Phật và chứng đắc quả vị A-la-hán.

[4]Trung đạo(zh. zhōngdào 中道, ja. chūdō, sa. madhyamāpratipad, pi. majjhimāpaipadā) là từ được dùng chỉ chung các phương pháp giảng dạy của Phật Thích-ca Mâu-ni, là người tránh những cực đoan trong cách tu học—như buông thả theo dục lạc và sống khổ hạnh tuyệt đối.

Trong Tiểu thừa, Bát chính đạo được xem là Trung đạo vì thực hành Bát chính đạo, hành giả vừa xa lánh đời sống dục lạc và đời sống khổ hạnh, thoát khỏi Khổ. Thái độ này được Phật miêu tả như sau trong kinh Chuyển pháp luân (Thích Minh Châu dịch):

"Này các Tỳ-kheo, có hai điều thái quá, người xuất gia không nên theo. Thế nào là hai? Một là mê đắm dục lạc, hạ liệt, phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không thiệt lợi đạo. Hai là tu khổ hạnh, khổ đau, không xứng Thánh hạnh, không thiệt lợi đạo. Này các Tỳ-kheo, chính nhờ từ bỏ hai điều thái quá này, Như Lai giác ngộ trung đạo, con đường đem đến pháp nhãn, trí huệ đưa lại an tịnh, thượng trí, chứng Niết-bàn.

 

Này các Tỳ-kheo, Trung đạo do Như Lai giác ngộ, đem đến pháp nhãn, trí huệ đưa lại an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết-bàn là gì? Chính là Bát chính đạo: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định".

Trung đạo cũng được dùng để chỉ giáo pháp Trung quán của Long Thọ, là môn phái không chấp nhận một đối cực nào của mọi phân cực. Trung đạo ở đây là thái độ từ bỏ hai quan điểm cực đoan thế giới là trường tồn hay hoại diệt, thế giới là có (hữu) hay không có (vô). Trong Trung quán tông, Trung đạo được trình bày rõ nhất với quan điểm tám phủ nhận (bát bất) của Long Thọ:

Không diệt, không sinh, không đứt đoạn, không thường còn, không là một, không đa dạng, không đến, không đi.

Trong Duy thức tông, Trung đạo được hiểu là vừa không xem sự vật tồn tại thật sự (vì sự vật thật tế không hề tồn tại), vừa cũng không cho rằng sự vật không hề có (vì sự vật tồn tại đối với ảo giác tâm lí). Theo Thiên Thai tông, Trung đạo là sự nhận thức rằng, mọi sự vật trống rỗng, chúng không có một thật thể độc lập, nhưng đồng thời chúng có giá trị nhất định, tạm thời—vì chúng là những trình hiện nên có một thọ mệnh nhất định. Sự tổng hợp giữa tính Không (sa. śūnyatā) và thế giới hiện tượng chính là Trung đạo đích thật—theo tông này.

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập