Các Mối Liên Hệ Tương Tức Giữa Thầy Cô Giáo và Học Trò, Học Trò và Thầy Cô Giáo trong Giáo Dục Phật Giáo

Đã đọc: 4440           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Chúng ta biết trong giáo dục đạo học cũng như thế học, những người thầy cô giáo luôn luôn mong mỏi các thế hệ đi sau giỏi hơn các thế hệ đi trước về các khía cạnh tài năng, trí tuệ, đức hạnh, v.v… Trong các ngữ cảnh giáo dục Phật giáo, nhà trường và nhà Chùa được xem như là những môi trường giáo dục Phật học ở tu viện và ở đại Tùng Lâm, học trò được xem như là các vị đệ tử có khả năng ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày để giúp đời thêm vui bớt khổ ngay tại thế gian này.

Như chúng ta biết tất cả mọi người và mọi vật trên cõi đời này đều có các mối tương quan và tương duyên với nhau hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp giữa người và người, giữa người và động vật, giữa người và thực vật, giữa người và môi trường thiên nhiên, v. v và v. v… Trong tất cả các mối liên hệ tương tức đó, mối liên hệ giữa người và người, đặc biệt là các mối quan hệ giữa thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo trong giáo dục Phật giáo được trình bày và thảo luận trong bài viết này.

Trong chủ đề của bài viết này, ta bắt gặp cụm từ giáo dục Phật giáo; giáo dục Phật giáo được chia thành hai từ khác nhau: Giáo dục và giáo dục Phật giáo. Những từ Pāli của “giáo dục” là “sikkhā, sikkhana, hoặc sikkhāpana” bao hàm ý nghĩa giảng dạy, giáo huấn, hướng dẫn, đào tạo, nghiên cứu, học tập[1]… và cũng có nghĩa là huấn luyện và phát triển đạo đức và tinh thần cho con người. Trong Phật giáo, giáo dục là nhằm giúp con người ý thức học và thực hành Phật Pháp hằng ngày để nhận diện, thanh lọc, và chuyển hóa phiền não thân tâm ngay trong cuộc sống hiện tại.[2] Hơn nữa, giáo dục không những dạy một vài phương tiện kiếm sống cho con người, mà còn giúp con người sống đời sống tinh thần và đạo đức vững chãi.[3]      

Giáo dục Phật giáo có nghĩa là tránh làm các điều ác, làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, là tiến trình tu tập, nhận diện, sửa đổi và chuyển hóa điều sai thành điều đúng, điều bất thiện thành điều thiện, vô minh (Avijjā) thành minh (Avijjā),[4] nhân tánh thành Phật tánh, khổ đau thành hạnh phúc, phiền não thành Bồ đề (Bodhi), v. v… Giáo dục Phật giáo nhằm đào tạo chúng ta trở thành con người chánh niệm và tĩnh giác, vững chãi và thảnh thơi, an vui và hạnh phúc như Bậc tỉnh thức.[5]

Đối tượng của giáo dục và giáo dục Phật giáo chính là con người; con người ở đây là con người chánh niệm và tỉnh thức có nhiều mối liên quan với nhau rất gần gũi được hiểu là thầy cô giáo và học trò, và ngược lại.    

Thực vậy, trong giáo dục Phật giáo, các mối liên hệ tương tức giữa thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo đều có những mối liên hệ đặc thù được nối kết với nhau bằng sự trao truyền, tiếp nối, giáo dục, và đào tạo con người tài và đức trong tinh thần tương trợ, tương thân, tương ái, tương kính, đôi bên cùng có lợi bao gồm tự lợi và lợi tha qua việc hành trì và ứng dụng Phật pháp vào trong cuộc sống hằng ngày để làm lợi ích cho số đông ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.

Như quý vị biết thầy cô giáo là những người đi trước thuộc thế hệ trước được hiểu là người trao truyền, truyền thừa, và hướng dẫn con đường cao thượng và chân chánh cho thế hệ sau. Học trò là những người đi sau thuộc thế hệ tiếp nối được hiểu là người được hướng dẫn có khả năng đi theo con đường của hiểu và thương mà thầy cô giáo đã trao truyền và hướng dẫn. Như vậy, cả người hướng dẫn và người được hướng dẫn đều có các mối tương quan và tương duyên qua lại với nhau rất mật thiết trong việc tu học, hành trì, ứng dụng, và nếm được hương vị an lạc của chánh Pháp để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

Theo cái nhìn tương tức, thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo đều là những người kế thừa, trao truyền, và tiếp nối từ nhiều thế hệ đi trước đến các thế hệ hiện tại và các thế hệ tương lai. Thầy cô giáo là những người thuộc thế hệ đi trước có trách nhiệm tiếp nối những uy nghi, tế hạnh, ý nghĩ, lời nói, và việc làm chân chánh của những thầy cô giáo ở các thế hệ trước của mình, và truyền trao lại cho các thế hệ sau. Học trò là những người thuộc thế hệ đi sau có bổn phận và trách nhiệm tiếp nối thân giáo, khẩu giáo, và ý giáo của người thầy cô giáo của mình, và truyền trao lại cho các đệ tử sau này của mình.

Như vậy, thầy cô giáo và học trò vừa là những người trao truyền và tiếp nối, vừa là những người hướng dẫn, và kế thừa, song cả thầy cô giáo và học trò đều có khả năng học đạo, hiểu đạo, hành đạo, hoằng đạo, và hộ trì đạo pháp của Đức Thế Tôn ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại và tương lai trên khắp hành tinh này. Khi hiểu và thực hành được như vậy, cả thầy cô giáo và học trò đều có khả năng đem đạo Phật đi về tương lai một cách vững chãi và thảnh thơi qua việc hành trì và ứng dụng Phật Pháp vào trong cuộc sống hằng ngày của mình để làm lợi ích cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này. Do vậy, các mối liên hệ giữa thầy cô giáo và học trò đều là những mối liên hệ rất đặc biệt, quan trọng, thân thiện, gần gũi, và chặt chẽ.

Chúng ta biết các mối liên hệ tương tức giữa thầy cô giáo và học trò được đề cập trong Kinh Thiện Sinh như phương Nam như sau:

Đối với thầy cô giáo, người học trò có năm bổn phận: Một là, cung kính, lễ phép, và sẵn lòng giúp thầy cô làm những việc cần thiết. Hai là, biết vâng lời thầy cô dạy bảo. Ba là, biết lắng nghe và học hỏi những điều hay nơi thầy cô. Bốn là, phải có tinh thần cầu học với thầy cô giáo những gì hay tốt và mới lạ mà mình chưa biết. Năm là, biết thực tập, ứng dụng, và sáng tạo những gì mình đã học. Ngược lại, đối với người học trò, thầy cô giáo cũng có năm bổn phận: Một là, giảng dạy cho học trò thấy biết chân chánh, tư duy chân chánh, nói năng chân chánh, lời nói, ý nghĩ, và việc làm chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, tinh tấn chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh, thiền định chân chánh. Hai là, hướng dẫn học trò những phương pháp sư phạm. Ba là, không che dấu kiến thức, hết lòng truyền trao kiến thức và kinh nghiệm sống cho học trò. Bốn là, truyền trao thân giáo, khẩu giáo, ý giáo cho học trò. Năm là, mong muốn học trò trở thành những người tài đức và giỏi hơn mình.[6]

 

Mặt khác, các mối liên hệ tương tức giữa thầy cô giáo và học trò cũng được đề cập trong Kinh Thừa Tự Pháp (Dhammadāyāda Sutta) số 3 thuộc Kinh Trung Bộ I (Majjhima Nikāya) qua việc tu học và ứng dụng chánh Pháp của Đức Thế Tôn để đem lại tiếng tốt, uy tín, uy nghi, hòa hợp, đoàn kết, sức mạnh, vững chãi, và thảnh thơi cho tự thân, cho đoàn thể tu học, cho cộng đồng, và cho xã hội.

Trong quá trình hoằng dương chánh Pháp và phục vụ nhân sinh, trước hết, cả những thầy cô giáo lẫn những người học trò phải là những người nguyện sống cuộc đời đạo đức, gương mẫu, chánh niệm, và tĩnh giác thông qua việc thừa tự chánh Pháp, tốt hơn là thừa tự tài vật. Tuy nhiên, thừa tự tài vật thích hợp, đúng người, đúng việc, đúng chỗ, và đúng lúc, thì cả các thầy cô giáo lẫn học trò đều có thể đem lại lợi ích cho nhiều người bởi vì họ là những hành giả tỉnh thức nguyện sống cuộc đời tỉnh thức, cùng đi trên đường vui, tu tập giải thoát, và làm đẹp cho cuộc đời.

Chúng ta biết thừa tự pháp là mang ý nghĩa đen, nghĩa bóng của nó có nghĩa là cả thầy cô giáo và học trò đều cùng nhau học pháp, hiểu pháp, hành pháp, hộ pháp, hoằng pháp, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hàng ngày của mình để đem lại an lạc và lợi ích cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này. Thừa tự pháp có nghĩa là quá trình tu tập và chuyển hóa thân tâm của thầy cô giáo và học trò. Trong quá trình tu tập này, cả thầy cô giáo và học trò đều có khả năng nhận diện và chuyển hóa những hạt giống bất thiện như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, v.vv…, thành các hạt giống thiện như bố thí, từ bi, trí huệ, khiêm nhường, chánh kiến…

Khi thừa tự pháp chuyên cần và tinh tấn, thì cả thầy cô giáo lẫn học trò đều có khả năng đem lại hạnh phúc cho người, yên vui cho gia đình, và thanh bình cho thế giới trong ánh sáng từ bi và trí tuệ của đức Thế tôn. Hơn nữa, chúng ta nên hiểu rằng thầy cô giáo và học trò ở đây có thể là những người xuất gia, hoặc có thể là những người tại gia. Cả hai hạng người này tu tập Phật Pháp ngon lành thì họ có thể đem lại hòa bình và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này.

Qua việc học, hiểu, hành trì, và ứng dụng Phật Pháp vào trong đời sống hằng ngày, thì họ thực sự là những nhà giáo hạnh phúc có thể thay đổi thế giới và có thể hiến tặng cho đời những hoa trái an vui và hạnh phúc ngay trong đời sống tu tập của họ. Thực vậy, những ai thừa tự chánh Pháp của Đức Thế Tôn một cách vững chãi và thảnh thơi, thì thân và tâm của họ luôn được thanh thản, nhẹ nhàng, và thư thái trong hơi thở, ý nghĩ, lời nói, và việc làm chánh niệm và tĩnh giác. Với việc áp dụng và thực hành Phật pháp tinh chuyên, an lạc và hạnh phúc có khả năng thấm nhuần và làm mát dịu thân tâm tốt đẹp.

Mặt khác, những ai thừa tự tài vật chỉ biết lợi dưỡng cho cá nhân, không có ý thức tu tập cho tự thân và cho tha nhân, thì chắc chắn họ sẽ bị thế gian chê cười và chỉ trích. Thực vậy, việc thừa tự tài vật như vậy chỉ mang ý nghĩa thụ hưởng cho cá nhân, không nhằm mục đích tu tập và làm lợi ích cho tự thân và tha nhân, thì trong trường hợp này, nó chỉ mang ý nghĩa vị kỷ, không rộng lượng, và không vị tha mà thôi. Tài vật ở đây được hiểu là đồ mặc, đồ dùng, đồ ăn, thức uống,  xe cộ, nhà cửa, v.v…

Thừa tự tài vật của người đàn việt cúng dường, các thầy cô giáo và học trò đều phải có ý thức biết đủ, nương vào đó để tu tập, để nuôi dưỡng thân tâm, để hoằng dương chánh Pháp, và để làm lợi lạc nhân sanh. Thừa tự tài vật như thế có thể mang nhiều lợi ích cho tự thân và cho tha nhân, cả thầy cô giáo và học trò sẽ không bao giờ bị thế gian chê cười và chỉ trích.

Người có tu học, thừa kế, và sử dụng tài vật thích hợp đúng người, đúng chỗ, đúng việc, và đúng lúc, thì họ có thể gặt hái và tạo thêm nhiều công đức. Người không có tu học, hoặc tu học nửa vời, thừa tự và dùng tài vật không đúng người, đúng chỗ, đúng việc, và không đúng lúc, thì họ tạo ra ít công đức, hoặc đôi lúc họ không gặt hái một tí công đức nào cả.   

Qua quá trình tu tập tinh tấn và thừa tự tài vật thích hợp, chúng ta có thể tạo thêm nhiều phước đức; phước đức có được là nhờ quá trình chúng ta biết cách làm từ thiện, như ủng hộ sinh viên nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, và giúp người nghèo khổ. Có phước đức, chúng ta tu tập vững chãi và lâu bền, sống đúng với Phật Pháp trong tinh thần vô ngã và vị tha.

Ví dụ tiêu biểu, tịnh tài được người thí chủ cúng dường dùng để nuôi Tăng chúng tu học, và đào tạo Tăng tài, thì mình chỉ dùng số tịnh tài đó để lo cho việc nuôi tăng chúng mà thôi. Ngược lại, nếu mình dùng tịnh tài đó cho việc xây Chùa, đúc chuông, và tạo tượng, thì các việc làm đó đều mang ý nghĩa là làm việc cho Tam Bảo, song trong trường hợp này, các việc làm trên đều mang ý nghĩa không thích hợp bởi vì chúng ta sử dụng tịnh tài không đúng người, đúng chỗ, đúng việc, và không đúng lúc.

Tuy nhiên, có đôi lúc mình sử dụng đồng tiền của thí chủ cúng dường không thích hợp, không đúng lúc, không đúng nơi, và không đúng việc. Chẳng hạn như, tiền thí chủ cúng dường cho việc xây Chùa và Tháp, mình sử dụng tiền đó cho việc in Kinh sách. Việc làm của mình như thế là không đúng. Là hành giả chân chánh, chúng ta cố gắng sửa đổi và chuyển hóa những ý nghĩ, lời nói, và việc làm không chân chánh thành những ý nghĩ, lời nói và việc làm chân chánh để đem lại niềm tin và uy tín cho tự thân và cho đoàn thể. Do vậy, nếu tiền dùng để nuôi Tăng chúng và đào tạo tăng ni tài đức, thì mình chỉ sử dụng đồng tiền đó để lo cho Tăng chúng mà thôi. Tiền để xây Chùa thì mình dùng đồng tiền đó cho việc xây Chùa mà thôi.

Qua các việc đề cập ở trên, chúng ta cần phải cẩn thận và ý thức rõ về việc thừa tự tài vật của người đàn việt. Dù việc nhỏ hay việc lớn chúng ta thừa tự tài vật đúng pháp trong ý thức chánh niệm và tĩnh giác, thì điều đó có khả năng đem lại an vui và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại. Lúc bấy giờ, những gì mình làm khi người ta nghe và thấy, thì họ đều sinh tâm vui và ủng hộ chúng ta liền. Năng lượng tu tập, kinh nghiệm sống, áng sáng từ bi và trí huệ, an lạc và hạnh phúc trong ta có khả năng tỏa sáng đến nhiều người.

Như vậy, thừa tự tài vật, ta tiêu thụ một ngày một lượng vàng cho các việc từ thiện đúng người, đúng việc, đúng chỗ, và đúng lúc, chúng ta cảm thấy an vui và an tâm, mà người khác cũng cảm thấy hoan hỷ. Nếu thừa tự tài vật cho việc làm từ thiện không thích hợp, không đúng người, đúng việc, đúng chỗ, và không đúng lúc, chúng ta tiêu thụ một ngày chỉ một tí vàng, tâm ta cảm thấy không an, không vui, lòng ta cảm thấy nao nao khó chịu. Đôi lúc chúng ta lại bị thế gian chỉ trích và chê trách.

Người cúng được phước rất nhiều, nhưng chúng ta nhận được phước rất ít bởi vì chúng ta sử dụng những thứ cúng dường của người thí chủ không đúng pháp. Những ai thừa tự tài vật mà không nỗ lực tu tập và chuyển hóa nội tâm, thì chỗ này, người ấy không dễ gì gặt hái được công đức và phước đức. Một khi công đức họ không đạt được, thì làm gì họ có được phước đức. 

Trong trường hợp này, người cúng tức là người thí chủ được ví như con dao, người được cúng tức là hành giả được ví như cục đá mài. Nếu nhận của cúng dường của người thí chủ, hành giả không lo tu tập tinh tấn, không sống đời sống chánh niệm và tĩnh giác, dùng đồ cúng dường của người thí chủ để làm việc từ thiện không thích hợp, không đúng người, đúng việc, đúng chỗ, và không đúng lúc, thì cục đá mài của hành giả càng ngày càng mòn, tức phước đức của hành giả càng ngày càng giảm. Ngược lại, con dao của người thí chủ cúng dường càng ngày càng bén, tức phước đức của người thí chủ càng ngày càng tăng trưởng.

Phước đức không có hình tướng, nhưng nó biểu hiện trong đời sống tu tập của mỗi chúng ta. Phước đức có thể thấy được qua đời sống an vui và hạnh phúc của tự viện, trong đó thầy cô giáo và học trò là những thức giả và hành giả xuất sĩ nguyện sống cuộc đời tỉnh thức có sự hòa hợp, thương yêu, và hiểu biết của tình pháp lữ đồng tu, tình huynh đệ để cùng nhau tu tập Phật Pháp và làm lợi lạc nhân sanh.

Ý thức việc ấy rõ được như vậy, chúng ta khéo biết tu tập, sống đời sống chánh niệm và tĩnh giác, biết sử dụng vật chất cúng dường của người đàn việt một cách thông minh để làm việc từ thiện thích hợp, thì niềm tin và uy tín của ta sẽ tăng trưởng. Khi nghe những việc ta làm chân chánh, thì mọi người ai nấy đều hoan hỷ phát tâm và sẳn sàng ủng hộ cho ta cả vật chất lẫn tinh thần. Khi hiểu và thực tập được như vậy, thì thầy cô giáo và học trò cùng người đàn việt đều cảm thấy vui và phấn khởi trong lòng. Từ đây, an lạc và hạnh phúc có khả năng thấm nhuần và mát dịu thân tâm xuyên qua việc hành trì và ứng dụng những lời Phật dạy vào trong cuộc sống hằng ngày để làm lợi ích cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

Như vậy, thừa tự Pháp và thừa tự tài vật đã thảo luận xong. Tiếp theo, chúng ta sẽ tiếp tục thảo luận các khía cạnh tri ân và nhớ ân giữa thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo trong các buổi Lễ Tạ Ơn hay Lễ Thù Ân của Phật giáo.

Như quý vị biết cứ mỗi nữa tháng vào buổi sáng sớm, các vị xuất Sĩ ở trong chốn thiền môn thường làm lễ Tạ ơn. Trong buổi lễ này, các vị một lòng đảnh lễ các ơn khác nhau như sau: Ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ; ơn Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo đã cho chúng con có sắc thân đức hạnh, thiền định, và trí tuệ; ơn các thầy cô giáo về sự dạy dỗ, trao truyền, và hướng dẫn; ơn những người đàn việt về sự hỗ trợ và cúng dường; ơn những anh hùng dân tộc về sự dựng nước và giữ nước; ơn các các quốc gia nơi mình sinh ra, lớn lên, sinh sống, và làm việc; ơn các môi trường thiên nhiên lành mạnh về sự bảo hộ và che chở khéo léo với tâm từ bi của con người; ơn các vị tổ Sư về việc hoằng dương chánh Pháp và phục vụ nhân sinh từ nghìn xưa cho tới ngày nay; ơn quý các vị đệ tử về việc tiếp nối và kế thừa, v.v…

Trong các loại tri ơn khác nhau đó, trong bài viết này, người viết chỉ đề cập tới các mối liên hệ tốt đẹp và mật thiết giữa quý thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo mà thôi.

Trong buổi Lễ Thù Ân, ngoài việc xướng lễ và đảnh lễ các loại ơn được thảo luận ở trên ra, người hành giả còn đảnh lễ ơn thầy cô và ơn học trò tiếp theo. Để tỏ lòng tôn kính và quý trọng những thầy cô giáo, người học trò đảnh lễ quý thầy cô giáo như thế này.  “Đệ tử chúng con nhớ ơn sự che chở, bảo hộ, và dạy dỗ của quý Thầy cô giáo, cúi đầu đảnh lễ Phật, Pháp và Tăng thường trú trong nhiều phương.

Trong quá trình tu và học, người học trò học rất nhiều lời hay ý đẹp, đặc biệt là kinh nghiệm sống và kinh nghiệm tu tập từ người thầy sư cô bổn sư và các vị y chỉ sư. Ngoài việc học trực tiếp và gián tiếp từ các vị thầy cô đạo học, người học trò còn học nhiều điều đạo đức, giáo dục, khoa học, y học, triết học… không những từ các vị thầy cô đạo học, mà còn các vị thầy cô thế học, người học trò đều ghi ơn và nhớ ơn họ sâu sắc.

Theo văn hóa và tinh thần hướng thượng và hướng thiện, những ai mà dạy cho ta một kinh nghiệm sống, một lời nói hay, một ý nghĩa hay, một việc làm hữu ích và thiết thực, thì họ là thầy cô giáo của ta. Thật vậy, trong giáo dục Phật giáo, người thầy cô thường đóng vai trò quan trọng của người chỉ đường, chỉ cho các đệ tử thấy rõ con đường an vui và hạnh phúc. Con đường an lạc này được ví như con đường xa lộ có tám làn xe (lane) tương tức với nhau. Mỗi làn xe chạy tượng trưng cho một điều chân chánh, tám làn xe tượng trưng cho tám điều chân chánh gồm có: “Cái nhìn chân chánh, ý nghĩ chân chánh, lời nói chân chánh, hành động chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, tinh tấn chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh, thiền định chân chánh.[7]

Tám làn xe được thâu nhiếp trong một con đường, tám điều chân chánh được thâu nhiếp trong an vui và giải thoát; an vui trong tu tập, giải thoát trong hành trì và ứng dụng Phật pháp vào trong cuộc sống hằng ngày của mình để làm lợi lạc nhân sanh.

Một là tám. Tám là một và là tất cả. Cả tám và một, một và tám đều bổ sung cho nhau như hình với bóng. Cả thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo đều nương tựa và hỗ trợ với nhau trong đời sống tu tập, an lạc, và hạnh phúc, cùng nhau hướng tới giác ngộ và giải thoát tâm linh như sóng với nước, không thể tách rời nhau được. Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì cả thầy cô giáo và học trò đều cảm thấy hạnh phúc và an vui qua việc học pháp, hiểu pháp, hành pháp, hộ pháp, và hoằng pháp. Cả thầy cô giáo và học trò đều có khả năng đem lại hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

Tiếp đến, để tỏ lòng vui mừng khi thấy các người học trò của mình giỏi hơn mình, người thầy khởi tâm niệm hoan hỷ động viên như sau: Con giỏi hơn cha mẹ là nhà có phúc, trò giỏi hơn thầy là trường có phúc, đệ tử giỏi hơn thầy là Chùa có phúc. Dĩ nhiên, cha mẹ và thầy tổ giỏi hơn con cái và đệ tử của họ, gia đình và nhà chùa của họ có phúc.

Chúng ta biết trong giáo dục đạo học cũng như thế học, những người thầy cô giáo luôn luôn mong mỏi các thế hệ đi sau giỏi hơn các thế hệ đi trước về các khía cạnh tài năng, trí tuệ, đức hạnh, v.v… Trong các ngữ cảnh giáo dục Phật giáo, nhà trường và nhà Chùa được xem như là những môi trường giáo dục Phật học ở tu viện và ở đại Tùng Lâm, học trò được xem như là các vị đệ tử có khả năng ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày để giúp đời thêm vui bớt khổ ngay tại thế gian này.

Hơn nữa, chúng ta biết khi đào tạo các thế hệ tuổi trẻ, các người cha, người mẹ, và người thầy cô giáo luôn mong muốn các người con, người học trò, và người đệ tử của mình giỏi hơn mình. Với cái nhìn trong sáng về tương lai, các thế hệ đi sau mà giỏi hơn các thế hệ đi trước, đặc biệt là ở khía cạnh tài năng, trí tuệ, và đức hạnh, thì họ có khả năng xây dựng và phát triển hòa bình, thịnh vượng, đạo pháp, và dân tộc bằng con đường đức trị và pháp trị, cụ thể là con đường có tám phương pháp tu tập và ứng dụng vào trong cuộc sống tu tập hàng ngày để làm lợi lạc cho quần sinh. Khi hiểu và thực hành được như vậy, mọi người đều nếm được Pháp hỷ và Pháp lạc ngay tại thế gian này.

Với tâm niệm giáo dục và đào tạo những người kế thừa và tiếp nối Phật Pháp trong hiện tại và trong tương lai, khi áp dụng và thực hành những lời Phật dạy vào trong đời sống hàng ngày một các đều đặn, vững chãi, và thảnh thơi, hướng về đức Phật tự tâm, các thầy cô thường khởi tâm xướng và đảnh lễ như sau: “Đệ tử chúng con nhớ ơn các vị đệ tử, những người có công tiếp nối ánh sáng của chánh Pháp, cúi đầu đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng thường trú trong nhiều phương.

Thật vậy, khi chọn cho mình hướng đi trong sáng, an lạc và tự do, cả thầy cô giáo và học trò nguyện cùng nhau thắp sáng lên ánh sáng của chánh Pháp, thắp sáng lên ánh sáng của tình thương cho các thế hệ hiện tại cũng như các thế hệ tương lai. Các vị là những người hành giả đích thực có khả năng đem lại hòa bình, an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân trên khắp hành tinh này.

Hơn nữa, là người hành giả tu tập đạo tỉnh thức, trên bước đường tu tập hướng thượng, hướng thiện, hướng tới an vui, hạnh phúc, và giải thoát cho tự thân và cho tha nhân, cả thầy cô giáo và học trò luôn luôn hiểu và nhận diện những ý nghĩ, lời nói, và hành động chánh niệm và tĩnh giác.

Theo thông lệ hằng năm, trong ba tháng An Cư Kiết Hạ của Tăng đoàn, có một ngày kết thúc khóa tu ba tháng; ngày kết thúc đó được gọi là ngày hoan hỷ, ngày Tết của chư vị xuất Sĩ, cùng đối mặt với nhau để làm lễ nhận diện những điều họ đã tu tập nơi Đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh và bày tỏ tấm lòng quý kính ​và tôn trọng lẫn nhau và nói lên rằng:

“Trong những ngày tu tập Phật Pháp với Đại Chúng, nếu mình có những điều gì chánh niệm hoặc thiếu chánh niệm, xin các bạn đồng tu hoan hỷ chỉ cho mình những điều tốt để mình biết cách phát huy và tăng trưởng; những điều không tốt để mình biết sửa đổi và chuyển hóa chúng. Nơi đạo tràng này, mình xin chân thành ghi nhận và tri ơn những điều chỉ giáo của các bạn đồng hành.

Xét thấy nếu mình có những điểm yếu kém do thiếu chánh niệm gây ra, mình hứa với lòng mình nguyện không lập lại lỗi lầm xưa, hoặc nếu mình có những điều tốt và lợi ích do chánh niệm hình thành, mình dặn với lòng mình cố gắng duy trì và phát huy những điều lợi ích đó để đem lại an và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì cả thầy cô giáo và trò, học trò và thầy cô giáo có thể cùng nhau góp phần đem đạo vào đời và giúp đời thêm vui bớt khổ. Trong cuộc sống hằng ngày, những người cư sĩ và người xuất sĩ cùng nhau hiểu, thực hành, và áp dụng những lời dạy của Đức Thế Tôn vào trong cuộc sống hằng ngày một cách tinh chuyên, uyển chuyển, chánh niệm, tĩnh giác, vững chãi, và thảnh thơi, thì chư vị có khả năng đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân trong gia đình, học đường, công sở, và trong xã hội.

Tóm lại, qua những gì đề cập ở trên, các mối liên hệ giữa thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo là những mối liên hệ đặc thù trong giáo dục Phật giáo được nối kết tương tức với nhau bằng ý nghĩ, lời nói, và việc làm thương yêu và hiểu biết bằng tình thầy cô giáo và học trò, bằng tình huynh đệ, tình pháp lữ đồng tu, bằng tình hộ pháp và hoằng pháp qua việc thực hành và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại an lạc và hạnh phúc cho nhiều người.

Những mối liên hệ mật thiết này rất thiết thực hiện tại được thắt chặt với nhau bằng chất liệu tu tập, bằng tình tương trợ, tương thân, tương ái, tương kính, hòa hợp, và đoàn kết, bằng sự trao truyền và tiếp nối, bằng sự hướng dẫn và kế thừa chánh Pháp của Đức Thế Tôn một cách chánh niệm và tĩnh giác, thì cả thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo đều là những hành giả an vui và giải thoát có khả năng bảo hộ, duy trì, và phát triển đạo Phật ở hiện tại cũng như ở tương lai một cách xán lạn và huy hoàng trên khắp thế gian này.

Kính chúc quý vị an trú và thấm nhuần chánh Pháp của Đức Thế Tôn.

                                                            By Thích Trừng Sỹ

 

 

 

The Interrelationships Between Teachers and Students, Students and Teachers in Buddhist Education

As we know that everyone and everything in this world have the inter-relationships and inter-connected things very closely, either indirectly or directly between people and people, between people and animals, between people and plants, between people and natural environment, so on and so forth. Of all the inter-relationships, the relationships between people and people, especially the relationships between teachers and students, students and teachers in Buddhist education are presented and discussed in this article.

In the topic of this article, we encounter the phrase Buddhist education; Buddhist education is divided into two different words: Education and Buddhist education.  The Pāliwords of “education” are “Sikkhā, Sikkhana, or Sikkhāpana” which denotes teaching, lecturing, instructing, training, studying, learning, etc.,[8]and also means training and developing virtue and spirit for people. In Buddhism, education is to help people consciously learn and practice the Buddhadharma every day to recognize, purify, and transform mental and physical afflictions right in the present life.[9] Moreover, education not only teaches somemeans of earning livelihood to people, but also help people live their solid spiritual and moral lives.[10]

Buddhist education, which means to avoid doing evil, to do good, to purify one’s mind,[11]is the process of cultivating, recognizing, modifying, and transforming the wrong into the right, the unwholesome into the wholesome, ignorance (Avijjā) into clear understanding (Vijjā),[12]human nature into Buddha nature, suffering into happiness, defilements into Bodhi, etc. Buddhist education aims at training us to become people of mindfulness and awakening, steadiness and carefreeness, peaceful joy and happiness like an awakened One.[13] 

The object of education and Buddhist education is people; the people here are the people who are mindful and aware have many close relationships, understood as teachers and students, and vice versa.

Indeed, in Buddhist education, the interrelationships between teachers and students, students and teachers all have specific relationships that are linked together by transmission, continuation, education and train of talented and virtuous people in the spirit of mutual assistance, mutual affection, mutual love, mutual respect, mutual benefit, including self-benefit and altruistic benefit through the practice and application of the Buddhadharma in daily life to benefit the many right here and right now in the present life.

As you know, teachers are the forerunners of the previous generation understood to be the ones who transmit, inherit, and guide the noble, righteous, and correct path to the next generation. Students who are the followers of the next generation are understood as guided people with the ability to follow the path of love and understanding the teachers have transmitted and instructed. Thus, both the guide and the guided people have very close interrelationships and interdependencies in learning, practicing, applying, and tasting the peaceful flavor of the Dharma in order to bring peace and happiness to the majority right in the present life.

According to the inter-being views, teachers and students, students and teachers are the inheritors, transmitters, and connectors from many previous generations to present generations and future generations. Teachers who are people of the previous generation have the responsibility to connect mindful manners, fine deeds, right thought, right speech, and right action of the teachers in their previous generations, and transmit them back to the next generations. Students who are the people of the younger generation have the duty and responsibility to connect bodily teachings, verbal teachings, and mental teachings of their teachers, and re-transmit them to their future disciples.

Thus, teachers and students are both transmitters, successors, guides, and inheritors, but both teachers and students have the ability to learn the Dharma, understand the Dharma, practice the Dharma, preach the Dharma, and protect the World-Honored One’s Dharma right here and right now in the present and future life all over the planet. When understanding and practicing so, both teachers and students have the capacity to bring Buddhism to the future stably and freely through the practice and application of the Buddhadharma into their daily lives to benefit themselves and other people right in this life. Therefore, the relationships between teachers and students, students and teachers are very special, important, friendly, close, and tight relationships.

We know the interrelationships between teachers and students are mentioned in the Thiện Sinh Sutra as in the Southern direction as follows:

To the teachers, the students have the five duties: 1/ Being respectful, polite, and willing to help the teachers to do the necessary things. 2/ Knowing to obey the teachers’ teachings. 3/ Knowing to listen and learn about the good things from the teachers. 4/ Having to have the spirit of learning with teachers about new and good things that you do not know yet. 5/ Knowing to practice, apply, and create something to have been learnt. Conversely, to the students, the teachers also have the five duties: 1/ Teaching their students right view, right thought, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration and meditation. 2/ Guiding students in pedagogical methods. 3/ Do not hide knowledge, and wholeheartedly impart knowledge and life experience to students. 4/ Transmitting bodily teachings, verbal teachings, mental teaching to students. 5/ Expecting students to become talented and virtuous people and better than teachers.[14]

On the other hand, we know the interrelationships between teachers and students are also mentioned in the Dharma Inheritance Sutta (Dhammadāyāda Sutta) Number 3 of Majjhima Nikāya via the practice and application of the World-Honored One’s Dharma in order to bring good reputation, prestige, manners, harmony, solidarity, strength, stability, and peacefulness for themselves, for learning and cultivation assemblies, for  the community, and for society.

In the process of propagating the Dharma and serving beings, first of all, both teachers and students must be those who vow to live their lives of virtue, exemplar, mindfulness, and awareness through inheriting the Dharma, better than inheriting material possessions. However, inheriting the material possessions properly at the right people, at the right works, at the right places and at the right time, both teachers and students can benefit many people because they are awakened practitioners vowing to live their lives of awakening, walking together on the happy path, practicing liberation, and making life beautified.

We know that the inheritance of the Dharma brings a literal meaning, its figurative meaning means both teachers and students together learn the Dharma, understand the Dharma, practice the Dharma, protect the Dharma, preach the Dharma, and apply the Buddhadharma in their daily lives to bring peace and happiness to themselves and other people right in this life. Inheriting the Dharma means the process of cultivation and transformation of teachers’ and students’ bodies and minds. In the process of this cultivation, both teachers and students have the capacity to transform the unwholesome seeds such as greed, anger, delusion, arrogance, doubt, wrong views, etc., into the wholesome seeds such as almsgiving, loving-kindness, compassion, wisdom, modesty, right view, etc.

When inheriting the Dharma diligently and effortfully, both teachers and students have the ability to bring happiness to people, joy to their families, and peace to the world in the light of loving-kindness, compassion, and wisdom of the World-Honored One. Furthermore, we should understand that teachers and students here can be whether monastics or lay Buddhists. Both kinds of those people that cultivate the Buddhadharma well can bring authentic peace and happiness to the many on over the planet.

Through learning, understanding, practicing, and applying the Buddhadharma into their daily lives, they are truly happy teachers who can change the world and dedicate the fruits and flowers of peace and joy to life. Indeed, those who inherit the Dharma of the World-Honored One stably and peacefully, their bodies and minds are always at ease, light, and relaxed in their mindful breaths, thoughts, words, and deeds. With applying and practicing the Buddhadharma diligently, peacefulness and happiness have the ability to permeate and cool their bodies and minds.

On the other hand, those who inherit material possessions only know to benefit individuals, have no sense of practice for themselves and other people, they will certainly be ridiculed and criticized by the world. Indeed, the inheritance of such material possessions is only for personal enjoyment, not for the purpose of practicing and benefiting oneself and other people, then in this case, it only means selfishness, no generosity, and no altruism. Material possessions here are understood as clothing, utensils, food, drinks, vehicles, houses, etc.

Inheriting material possessions offered by almsgivers, both teachers and students that must have a sense of knowing enough depend on it to cultivate, to nurture their bodies and minds, to propagate the Dharma, and to benefit living beings. Inheriting such material possessions can bring many benefits for oneself and other people, both teachers and students will never be ridiculed and criticized by the world.

Those who have cultivated, inherited, and used the material possessions properly with the right people, at the right places, at the right jobs, and at the right time, can reap and create more merit. People who do not practice cultivation, or practice half-heartedly, inherit and use the material possessions with the wrong people, in the wrong place, in the wrong job, and at the wrong time, they create little merit, or sometimes they do not reap any merit at all.

Through the process of cultivating diligently and inheriting the material possessions properly, we can create more merit; the merit we obtain is thanks to the process we know how to do charity, such as supporting poor students, building houses of gratitude, helping the needy, etc. With merit and virtue, we practice strong and long-term cultivation, live in accordance with the Buddhadharma in the spirit of selflessness and altruism.

For typical example, money offered by donors is used for raising monastics to cultivate and train them to become talented and virtuous people, we only use that money for nurturing the monastics. Conversely, if we use that money for building a Temple, casting a bell, creating a statue, those affairs all mean working for the Triple Gem (the Buddha, the Dharma and the Sangha), but in this case, all of the above actions have inappropriate meanings because we use that money with the wrong people, in the wrong place, in the wrong job, and at the wrong time.

However, there are times when we use the money offered by donors inappropriately, at the wrong time, in the wrong place, and in the wrong job. For instance, money is offered by donors for building a Temple, a Stupa, we use that money for printing Scriptures. What we did like that was not right. As good practitioners, we try to correct and transform wrong thoughts, speeches, and actions into right thoughts, speeches and actions to bring confidence and prestige for ourselves and for the communities. Therefore, if the money is used to raise the Sangha and train talented and virtuous monastics, then we only use that money to take care of the Sangha. Money to build the Temple, we use that money only for the construction of the Temple.

Through the above-mentioned things, we need to be careful and fully aware of inheriting material possessions of almsgivers. Whether small things or big things we inherit material possessions in the right way in the sense of mindfulness and awareness, this has the capacity to bring peace and happiness to the majority right in the present life. At that time, what we have done when people hear and see, they generate joy and support us right away. The energy of cultivation, life experience, the light of compassion and wisdom, peacefulness and happiness in us has the ability to illuminate many people.

Thus, inheriting material possessions, we consume an amount of gold a day for charity works in the right people, at the right job, at the right place, and at the right time, we feel happy and secure, but other people also feel glad and joyful. If inheriting material possessions for charity is not appropriate, not in the right people, at the right job, at the right place, and not at the right time, we consume a little bit of gold a day, our mind feels unsecure and unhappy, our heart feels uneasy and uncomfortable. Sometimes we are criticized and reproached by the world.

Donors gets very much merit, but we get very little merit because we use the donors’ offerings in the wrong way. Those who inherit material possessions do not make efforts to cultivate and transform internal mind, in this point, it is not easy for them to reap merit and virtue. Once they don't get merit, how can they get virtuous blessing?

In this case, a person offering who is a donor is likened to a knife, the offered person who is a practitioner is likened to a grinding stone. If receiving material possessions from almsgivers, the practitioner who does not cultivate diligently does not live a life mindfulness and awakening, uses donations from almsgivers to do the charitable things not appropriately, not in the right people, at the right job, in the right place, and not at the right time, the grinding stone of the practitioner becomes more and more worn, namely virtuous blessing of the practitioner gets more and more decreasing. Conversely, the almsgiver’s knife is sharper and sharper, namely virtuous blessing of the almsgiver gets more and more increasing.

Virtuous blessing has no sign, but it manifests itself in the cultivated life of each of us. Virtuous blessing can be seen via the peaceful and happy life of monastery, in which teachers and students are wise people and practitioners vowing to live their lives of awakening with harmony, love, and understanding of fellow practitioners, sisterhood, and brotherhood in order to jointly practice the Buddhadharma and benefit human beings.

Being aware of it very clearly, we know how to practice well, live a life of mindfulness and awareness, know how to use material possessions offered by almsgivers intelligently to do appropriate charity work, our trust and prestige will grow up. When we hear what we do righteously, everyone is happy and willing to support us both materially and spiritually. When understanding and practicing so, teachers, students, along with almsgivers feel happy in their hearts. From here, peace and happiness have the ability to permeate and cool the body and mind through the practice and application of the Buddha’s teachings in their daily lives to benefit the many right in the present life.

Thus, the Dharma inheritance and the material inheritance have been discussed. Next, we will continue to discuss the aspects of knowing gratitude and remembering gratitude between teachers and students, students and teachers in the Ceremonies of Thanksgiving or Grateful Repayment of Buddhism.

As we know every month in the early morning, the monastics in the different Buddhist Temples usually perform the Thanksgiving Ceremony. In this Ceremony, they wholeheartedly pay respects to different kinds of gratitude as follows: Gratitude to parents for their giving birth and upbringing; gratitude to the Buddha Jewel, the Dharma Jewel, and the Sangha Jewel for giving us bodies of virtue, meditation, and wisdom; gratitude to teachers for their teaching, transmission and instruction; gratitude to almsgivers for their support and donations; gratitude to the national heroes for building and defending the country; gratitude to the countries where you were born, have grown up, lived, and worked; gratitude to healthy natural environments for the auspices and skillful protections of people; gratitude to Patriarchs for their Dharma propagation and service to humanity from ancient time until the present time; gratitude to disciples for their Dharma inheritance and continuation, so on and so forth.

Of the different kinds of gratitude, in this article, the writer merely mentions the good and intimate relationships between teachers and students, students and teachers only. In a Repayment Ceremony, apart from chanting and paying respects to the kinds of the above-discussed gratitude, practitioners still pay respects to the following gratitude between teachers and students. To express deep respect and esteem to teachers, students pay homage to their teachers like this. “We the disciples who would like to thank our teachers for your guardianship, protection, and instruction, bow down and pay homage to the Buddha, the Dharma, and the Sangha residing permanently in many directions.

In the process of Dharma cultivation and learning, students learn a lot of beautiful words and nice ideas, especially life experience and cultivation experience from the first teacher and other teachers. In addition to learning directly and indirectly from the Dharma teachers, the students also learn many things about virtue, education, science, medicine, philosophy, etc., not only from Dharma teachers, but also from secular teachers, the students are thankful and grateful to them deeply.

According to the culture and spirit of upward and good direction, those who teach us a life experience, a good speech, a good meaning, a useful and practical work are our teachers. Indeed, in Buddhist education, teachers often play very important roles of the guides showing the disciples the path of peace and happiness. This peaceful path is likened to an interconnected eight-lane freeway. Each lane represents a right thing, eight lanes symbolize eight right things including: “Right view, right thought, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness and right concentration[15]

Eight lanes are gathered in a path, eight right things are collected in peace and liberation; peace in cultivation, liberation in practice, and application of the Buddhadharma in our daily lives to benefit human beings. One is eight. Eight is one and all. Both eight and one, one and eight support together like image with its shadow. Both teachers and students, students and teachers take refuge in and support each other in their lives of cultivation, peace, and happiness, together towards enlightenment and spiritual liberation like waves with water, they cannot separate from each other. When they understand and practice so, both teachers and students feel happy and peaceful through studying the Dharma, understanding the Dharma, practicing the Dharma, protecting the Dharma, and spreading the Dharma. Both teachers and students have the ability to bring the flowers and fruits of peacefulness and happiness right here and right now in the present life.

Next, in order to express their happy hearts when they see that the students are better than the teachers, the teachers start to think of joy and encouragement as follows: Children are better than parents whose house has virtuous blessings, the students are better than the teachers whose school has virtuous blessings, the disciples are better than the teachers whose Temple has virtuous blessings. Of course, parents and teachers are better than their children and disciples, their families and Temples have virtuous blessings.

We know in secular education as well as Dharma education, teachers always expect next generations to be better than previous generations about aspects of talent, wisdom, virtue, etc. Indeed, in the contexts of Buddhist education, schools and the Temples are seen as environments of Buddhist studies in monasteries and in maha viharas, students are seen as disciples capable of applying Buddhadharma into everyday life to help life add joy and lessen suffering right in this world.

Moreover, we know that when training young generations, fathers, mothers and teachers always wish their children, students, and disciples to be better than themselves. With a bright view of the future, the following generations are better than the predecessors, especially in talent, wisdom and virtue, they are capable of building and developing peace and prosperity, the Dharma, and the nation by the path of Dharma law and worldly law, namely the path with eight cultivation methods and applications in daily practice life to benefit sentient beings. When understanding and practicing so, everyone tastes Dharma joy and Dharma happiness right here and right now in the present life.

With the mind of educating and training those who inherit and continue the Buddhadharma in the present and in the future, when applying and practicing the Buddha’s teachings into the daily life regularly, stably, and relaxedly, directing towards his own Buddha, teachers often initiate and pay respects as follows: “We disciples who are grateful to our disciples for their linkage of the light of the Dharma, bow down and pay homage to the Buddha, the Dharma and the Sangha residing permanently in directions.

Indeed, when choosing them the direction of going brightly, peacefully and freely, both teachers and students vow to light up the light of the Dharma together, light up the light of love for the present generations as well as the future generations. They are authentic practitioners with the ability to bring peace, peacefulness and happiness to themselves and to others all over this planet.

Moreover, as practitioners practicing the awakening path, on the path of cultivation towards the upper, towards the good, towards peacefulness, happiness, and liberation for themselves and for other people, both teachers and students always understand and recognize their mindful thoughts, words, and actions that are mindful and awakening.

According to the annual practice, in the three months of the Sangha's summer Retreat or Raining Retreat (vassa vassa), there is a day to end the three-month retreat; that closing day is called the day of joy, the Tết holiday of monastics, facing each other to perform a ceremony to recognize what they had practiced in the dignified and pure Dharma center and to express their mutual respect and esteem ​and say:

“During the days of practicing Buddhadharma with the Great Assembly if I have something mindful or deficiently mindful, please beg fellow practitioners happily to show me the good things so I know how to promote and increase them; the non-good things for me to know how to correct and transform them. In this Dharma Center, I would like to sincerely acknowledge and be grateful to fellow practitioners for their instructions.

Realizing that if I have weaknesses caused by lack of mindfulness, I promise my heart not to repeat the last mistake, or if I have good and beneficial things created by right mindfulness, I tell my heart to try to maintain and promote the benefits to bring peacefulness and happiness to the many right in the present life.”

When understanding and practicing so, both teachers and students, students and teachers can together contribute to bringing the Dharma into life and making life more joyful and less suffering. In everyday life, lay Buddhists and monastics together understand and apply the World-Honored One’s teachings into their daily lives diligently, flexibly, mindfully, wakefully, stably, and relaxedly, they have the ability to bring joy and happiness for themselves and for other people in in the family, at school, in the workplace, in the office, and in society.

To sum up, through the above-mentioned things, the relationships between teachers and students, students and teachers are specific relationships in Buddhist education interconnected with one another by thoughts, speeches, and actions of love and understanding by love of teachers and students, by love of sisterhood, brotherhood, love of dharma friends, fellow practitioners, by love of the Dharma protection and Dharma propagation through the practice and application of the Buddhadharma in their daily lives to bring peacefulness and happiness to many people.

The intimate relationships which are very practical in the present are tightened together by the substance of cultivation, by mutual assistance, mutual affection, mutual love, mutual respect, harmony, and solidarity, by transmission and continuation, by guidance and inheritance of the Dharma of World-Honored One mindfully and consciously, both teachers and students, students and teachers that are practitioners of peacefulness and liberation have the capacity to protect, uphold. and develop Buddhism in the present as well as in the future brightly and splendidly all over the world.

Respectfully wishing you full of peace, joy, stability, and freedom, and imbued with the Dharma of the World-Honored One.

By Thích Trừng Sỹ  

 

 

 

 

Các mối liên hệ tương tức giữa Thầy Cô giáo và Học Trò, Học Trò và Thầy Cô giáo trong giáo dục Phật giáo

The interrelationships between Teachers and Students, Students and Teachers in Buddhist Education

Như chúng ta biết tất cả mọi người và mọi vật trên cõi đời này đều có các mối tương quan và tương duyên với nhau hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp giữa người và người, giữa người và động vật, giữa người và thực vật, giữa người và môi trường thiên nhiên, v. v và v. v… Trong tất cả các mối liên hệ tương tức đó, mối liên hệ giữa người và người, đặc biệt là các mối quan hệ giữa thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo trong giáo dục Phật giáo được trình bày và thảo luận trong bài viết này.

As we know that everyone and everything in this world have the inter-relationships and inter-connected things very closely, either indirectly or directly between people and people, between people and animals, between people and plants, between people and natural environment, so on and so forth. Of all the inter-relationships, the relationships between people and people, especially the relationships between teachers and students, students and teachers in Buddhist education are presented and discussed in this article.

Trong chủ đề của bài viết này, ta bắt gặp cụm từ giáo dục Phật giáo; giáo dục Phật giáo được chia thành hai từ khác nhau: Giáo dục và giáo dục Phật giáo. Những từ Pāli của “giáo dục” là “sikkhā, sikkhana, hoặc sikkhāpana” bao hàm ý nghĩa giảng dạy, giáo huấn, hướng dẫn, đào tạo, nghiên cứu, học tập[16]… và cũng có nghĩa là huấn luyện và phát triển đạo đức và tinh thần cho con người. Trong Phật giáo, giáo dục là nhằm giúp con người ý thức học và thực hành Phật Pháp hằng ngày để nhận diện, thanh lọc, và chuyển hóa phiền não thân tâm ngay trong cuộc sống hiện tại.[17] Hơn nữa, giáo dục không những dạy một vài phương tiện kiếm sống cho con người, mà còn giúp con người sống đời sống tinh thần và đạo đức vững chãi.[18]      

In the topic of this article, we encounter the phrase Buddhist education; Buddhist education is divided into two different words: Education and Buddhist education.  The Pāliwords of “education” are “Sikkhā, Sikkhana, or Sikkhāpana” which denotes teaching, lecturing, instructing, training, studying, learning, etc.,[19]and also means training and developing virtue and spirit for people. In Buddhism, education is to help people consciously learn and practice the Buddhadharma every day to recognize, purify, and transform mental and physical afflictions right in the present life.[20] Moreover, education not only teaches somemeans of earning livelihood to people, but also help people live their solid spiritual and moral lives.[21]

Giáo dục Phật giáo có nghĩa là tránh làm các điều ác, làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, là tiến trình tu tập, nhận diện, sửa đổi và chuyển hóa điều sai thành điều đúng, điều bất thiện thành điều thiện, vô minh (Avijjā) thành minh (Avijjā),[22] nhân tánh thành Phật tánh, khổ đau thành hạnh phúc, phiền não thành Bồ đề (Bodhi), v. v… Giáo dục Phật giáo nhằm đào tạo chúng ta trở thành con người chánh niệm và tĩnh giác, vững chãi và thảnh thơi, an vui và hạnh phúc như Bậc tỉnh thức.[23]

Buddhist education, which means to avoid doing evil, to do good, to purify one’s mind,[24]is the process of cultivating, recognizing, modifying, and transforming the wrong into the right, the unwholesome into the wholesome, ignorance (Avijjā) into clear understanding (Vijjā),[25]human nature into Buddha nature, suffering into happiness, defilements into Bodhi, etc. Buddhist education aims at training us to become people of mindfulness and awakening, steadiness and carefreeness, peaceful joy and happiness like an awakened One.[26] 

Đối tượng của giáo dục và giáo dục Phật giáo chính là con người; con người ở đây là con người chánh niệm và tỉnh thức có nhiều mối liên quan với nhau rất gần gũi được hiểu là thầy cô giáo và học trò, và ngược lại.    

The object of education and Buddhist education is people; the people here are the people who are mindful and aware have many close relationships, understood as teachers and students, and vice versa.

 

Thực vậy, trong giáo dục Phật giáo, các mối liên hệ tương tức giữa thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo đều có những mối liên hệ đặc thù được nối kết với nhau bằng sự trao truyền, tiếp nối, giáo dục, và đào tạo con người tài và đức trong tinh thần tương trợ, tương thân, tương ái, tương kính, đôi bên cùng có lợi bao gồm tự lợi và lợi tha qua việc hành trì và ứng dụng Phật pháp vào trong cuộc sống hằng ngày để làm lợi ích cho số đông ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.

Indeed, in Buddhist education, the interrelationships between teachers and students, students and teachers all have specific relationships that are linked together by transmission, continuation, education and train of talented and virtuous people in the spirit of mutual assistance, mutual affection, mutual love, mutual respect, mutual benefit, including self-benefit and altruistic benefit through the practice and application of the Buddhadharma in daily life to benefit the many right here and right now in the present life.

Như quý vị biết thầy cô giáo là những người đi trước thuộc thế hệ trước được hiểu là người trao truyền, truyền thừa, và hướng dẫn con đường cao thượng và chân chánh cho thế hệ sau. Học trò là những người đi sau thuộc thế hệ tiếp nối được hiểu là người được hướng dẫn có khả năng đi theo con đường của hiểu và thương mà thầy cô giáo đã trao truyền và hướng dẫn. Như vậy, cả người hướng dẫn và người được hướng dẫn đều có các mối tương quan và tương duyên qua lại với nhau rất mật thiết trong việc tu học, hành trì, ứng dụng, và nếm được hương vị an lạc của chánh Pháp để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

As you know, teachers are the forerunners of the previous generation understood to be the ones who transmit, inherit, and guide the noble, righteous, and correct path to the next generation. Students who are the followers of the next generation are understood as guided people with the ability to follow the path of love and understanding the teachers have transmitted and instructed. Thus, both the guide and the guided people have very close interrelationships and interdependencies in learning, practicing, applying, and tasting the peaceful flavor of the Dharma in order to bring peace and happiness to the majority right in the present life.

Theo cái nhìn tương tức, thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo đều là những người kế thừa, trao truyền, và tiếp nối từ nhiều thế hệ đi trước đến các thế hệ hiện tại và các thế hệ tương lai. Thầy cô giáo là những người thuộc thế hệ đi trước có trách nhiệm tiếp nối những uy nghi, tế hạnh, ý nghĩ, lời nói, và việc làm chân chánh của những thầy cô giáo ở các thế hệ trước của mình, và truyền trao lại cho các thế hệ sau. Học trò là những người thuộc thế hệ đi sau có bổn phận và trách nhiệm tiếp nối thân giáo, khẩu giáo, và ý giáo của người thầy cô giáo của mình, và truyền trao lại cho các đệ tử sau này của mình.

According to the inter-being views, teachers and students, students and teachers are the inheritors, transmitters, and connectors from many previous generations to present generations and future generations. Teachers who are people of the previous generation have the responsibility to connect mindful manners, fine deeds, right thought, right speech, and right action of the teachers in their previous generations, and transmit them back to the next generations. Students who are the people of the younger generation have the duty and responsibility to connect bodily teachings, verbal teachings, and mental teachings of their teachers, and re-transmit them to their future disciples.

Như vậy, thầy cô giáo và học trò vừa là những người trao truyền và tiếp nối, vừa là những người hướng dẫn, và kế thừa, song cả thầy cô giáo và học trò đều có khả năng học đạo, hiểu đạo, hành đạo, hoằng đạo, và hộ trì đạo pháp của Đức Thế Tôn ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại và tương lai trên khắp hành tinh này. Khi hiểu và thực hành được như vậy, cả thầy cô giáo và học trò đều có khả năng đem đạo Phật đi về tương lai một cách vững chãi và thảnh thơi qua việc hành trì và ứng dụng Phật Pháp vào trong cuộc sống hằng ngày của mình để làm lợi ích cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này. Do vậy, các mối liên hệ giữa thầy cô giáo và học trò đều là những mối liên hệ rất đặc biệt, quan trọng, thân thiện, gần gũi, và chặt chẽ.

Thus, teachers and students are both transmitters, successors, guides, and inheritors, but both teachers and students have the ability to learn the Dharma, understand the Dharma, practice the Dharma, preach the Dharma, and protect the World-Honored One’s Dharma right here and right now in the present and future life all over the planet. When understanding and practicing so, both teachers and students have the capacity to bring Buddhism to the future stably and freely through the practice and application of the Buddhadharma into their daily lives to benefit themselves and other people right in this life. Therefore, the relationships between teachers and students, students and teachers are very special, important, friendly, close, and tight relationships.

Chúng ta biết các mối liên hệ tương tức giữa thầy cô giáo và học trò được đề cập trong Kinh Thiện Sinh như phương Nam như sau:

Đối với thầy cô giáo, người học trò có năm bổn phận: Một là, cung kính, lễ phép, và sẵn lòng giúp thầy cô làm những việc cần thiết. Hai là, biết vâng lời thầy cô dạy bảo. Ba là, biết lắng nghe và học hỏi những điều hay nơi thầy cô. Bốn là, phải có tinh thần cầu học với thầy cô giáo những gì hay tốt và mới lạ mà mình chưa biết. Năm là, biết thực tập, ứng dụng, và sáng tạo những gì mình đã học. Ngược lại, đối với người học trò, thầy cô giáo cũng có năm bổn phận: Một là, giảng dạy cho học trò thấy biết chân chánh, tư duy chân chánh, nói năng chân chánh, lời nói, ý nghĩ, và việc làm chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, tinh tấn chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh, thiền định chân chánh. Hai là, hướng dẫn học trò những phương pháp sư phạm. Ba là, không che dấu kiến thức, hết lòng truyền trao kiến thức và kinh nghiệm sống cho học trò. Bốn là, truyền trao thân giáo, khẩu giáo, ý giáo cho học trò. Năm là, mong muốn học trò trở thành những người tài đức và giỏi hơn mình.[27]

 

We know the interrelationships between teachers and students are mentioned in the Thiện Sinh Sutra as in the Southern direction as follows:

 

To the teachers, the students have the five duties: 1/ Being respectful, polite, and willing to help the teachers to do the necessary things. 2/ Knowing to obey the teachers’ teachings. 3/ Knowing to listen and learn about the good things from the teachers. 4/ Having to have the spirit of learning with teachers about new and good things that you do not know yet. 5/ Knowing to practice, apply, and create something to have been learnt. Conversely, to the students, the teachers also have the five duties: 1/ Teaching their students right view, right thought, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration and meditation. 2/ Guiding students in pedagogical methods. 3/ Do not hide knowledge, and wholeheartedly impart knowledge and life experience to students. 4/ Transmitting bodily teachings, verbal teachings, mental teaching to students. 5/ Expecting students to become talented and virtuous people and better than teachers.[28]

Mặt khác, các mối liên hệ tương tức giữa thầy cô giáo và học trò cũng được đề cập trong Kinh Thừa Tự Pháp (Dhammadāyāda Sutta) số 3 thuộc Kinh Trung Bộ I (Majjhima Nikāya) qua việc tu học và ứng dụng chánh Pháp của Đức Thế Tôn để đem lại tiếng tốt, uy tín, uy nghi, hòa hợp, đoàn kết, sức mạnh, vững chãi, và thảnh thơi cho tự thân, cho đoàn thể tu học, cho cộng đồng, và cho xã hội.

On the other hand, we know the interrelationships between teachers and students are also mentioned in the Dharma Inheritance Sutta (Dhammadāyāda Sutta) Number 3 of Majjhima Nikāya via the practice and application of the World-Honored One’s Dharma in order to bring good reputation, prestige, manners, harmony, solidarity, strength, stability, and peacefulness for themselves, for learning and cultivation assemblies, for  the community, and for society.

Trong quá trình hoằng dương chánh Pháp và phục vụ nhân sinh, trước hết, cả những thầy cô giáo lẫn những người học trò phải là những người nguyện sống cuộc đời đạo đức, gương mẫu, chánh niệm, và tĩnh giác thông qua việc thừa tự chánh Pháp, tốt hơn là thừa tự tài vật. Tuy nhiên, thừa tự tài vật thích hợp, đúng người, đúng việc, đúng chỗ, và đúng lúc, thì cả các thầy cô giáo lẫn học trò đều có thể đem lại lợi ích cho nhiều người bởi vì họ là những hành giả tỉnh thức nguyện sống cuộc đời tỉnh thức, cùng đi trên đường vui, tu tập giải thoát, và làm đẹp cho cuộc đời.

In the process of propagating the Dharma and serving beings, first of all, both teachers and students must be those who vow to live their lives of virtue, exemplar, mindfulness, and awareness through inheriting the Dharma, better than inheriting material possessions. However, inheriting the material possessions properly at the right people, at the right works, at the right places and at the right time, both teachers and students can benefit many people because they are awakened practitioners vowing to live their lives of awakening, walking together on the happy path, practicing liberation, and making life beautified.

Chúng ta biết thừa tự pháp là mang ý nghĩa đen, nghĩa bóng của nó có nghĩa là cả thầy cô giáo và học trò đều cùng nhau học pháp, hiểu pháp, hành pháp, hộ pháp, hoằng pháp, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hàng ngày của mình để đem lại an lạc và lợi ích cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này. Thừa tự pháp có nghĩa là quá trình tu tập và chuyển hóa thân tâm của thầy cô giáo và học trò. Trong quá trình tu tập này, cả thầy cô giáo và học trò đều có khả năng nhận diện và chuyển hóa những hạt giống bất thiện như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, v.vv…, thành các hạt giống thiện như bố thí, từ bi, trí huệ, khiêm nhường, chánh kiến…

We know that the inheritance of the Dharma brings a literal meaning, its figurative meaning means both teachers and students together learn the Dharma, understand the Dharma, practice the Dharma, protect the Dharma, preach the Dharma, and apply the Buddhadharma in their daily lives to bring peace and happiness to themselves and other people right in this life. Inheriting the Dharma means the process of cultivation and transformation of teachers’ and students’ bodies and minds. In the process of this cultivation, both teachers and students have the capacity to transform the unwholesome seeds such as greed, anger, delusion, arrogance, doubt, wrong views, etc., into the wholesome seeds such as almsgiving, loving-kindness, compassion, wisdom, modesty, right view, etc.

Khi thừa tự pháp chuyên cần và tinh tấn, thì cả thầy cô giáo lẫn học trò đều có khả năng đem lại hạnh phúc cho người, yên vui cho gia đình, và thanh bình cho thế giới trong ánh sáng từ bi và trí tuệ của đức Thế tôn. Hơn nữa, chúng ta nên hiểu rằng thầy cô giáo và học trò ở đây có thể là những người xuất gia, hoặc có thể là những người tại gia. Cả hai hạng người này tu tập Phật Pháp ngon lành thì họ có thể đem lại hòa bình và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này.

When inheriting the Dharma diligently and effortfully, both teachers and students have the ability to bring happiness to people, joy to their families, and peace to the world in the light of loving-kindness, compassion, and wisdom of the World-Honored One. Furthermore, we should understand that teachers and students here can be whether monastics or lay Buddhists. Both kinds of those people that cultivate the Buddhadharma well can bring authentic peace and happiness to the many on over the planet.

Qua việc học, hiểu, hành trì, và ứng dụng Phật Pháp vào trong đời sống hằng ngày, thì họ thực sự là những nhà giáo hạnh phúc có thể thay đổi thế giới và có thể hiến tặng cho đời những hoa trái an vui và hạnh phúc ngay trong đời sống tu tập của họ. Thực vậy, những ai thừa tự chánh Pháp của Đức Thế Tôn một cách vững chãi và thảnh thơi, thì thân và tâm của họ luôn được thanh thản, nhẹ nhàng, và thư thái trong hơi thở, ý nghĩ, lời nói, và việc làm chánh niệm và tĩnh giác. Với việc áp dụng và thực hành Phật pháp tinh chuyên, an lạc và hạnh phúc có khả năng thấm nhuần và làm mát dịu thân tâm tốt đẹp.

Through learning, understanding, practicing, and applying the Buddhadharma into their daily lives, they are truly happy teachers who can change the world and dedicate the fruits and flowers of peace and joy to life. Indeed, those who inherit the Dharma of the World-Honored One stably and peacefully, their bodies and minds are always at ease, light, and relaxed in their mindful breaths, thoughts, words, and deeds. With applying and practicing the Buddhadharma diligently, peacefulness and happiness have the ability to permeate and cool their bodies and minds.

Mặt khác, những ai thừa tự tài vật chỉ biết lợi dưỡng cho cá nhân, không có ý thức tu tập cho tự thân và cho tha nhân, thì chắc chắn họ sẽ bị thế gian chê cười và chỉ trích. Thực vậy, việc thừa tự tài vật như vậy chỉ mang ý nghĩa thụ hưởng cho cá nhân, không nhằm mục đích tu tập và làm lợi ích cho tự thân và tha nhân, thì trong trường hợp này, nó chỉ mang ý nghĩa vị kỷ, không rộng lượng, và không vị tha mà thôi. Tài vật ở đây được hiểu là đồ mặc, đồ dùng, đồ ăn, thức uống,  xe cộ, nhà cửa, v.v…

On the other hand, those who inherit material possessions only know to benefit individuals, have no sense of practice for themselves and other people, they will certainly be ridiculed and criticized by the world. Indeed, the inheritance of such material possessions is only for personal enjoyment, not for the purpose of practicing and benefiting oneself and other people, then in this case, it only means selfishness, no generosity, and no altruism. Material possessions here are understood as clothing, utensils, food, drinks, vehicles, houses, etc.

Thừa tự tài vật của người đàn việt cúng dường, các thầy cô giáo và học trò đều phải có ý thức biết đủ, nương vào đó để tu tập, để nuôi dưỡng thân tâm, để hoằng dương chánh Pháp, và để làm lợi lạc nhân sanh. Thừa tự tài vật như thế có thể mang nhiều lợi ích cho tự thân và cho tha nhân, cả thầy cô giáo và học trò sẽ không bao giờ bị thế gian chê cười và chỉ trích.

Inheriting material possessions offered by almsgivers, both teachers and students that must have a sense of knowing enough depend on it to cultivate, to nurture their bodies and minds, to propagate the Dharma, and to benefit living beings. Inheriting such material possessions can bring many benefits for oneself and other people, both teachers and students will never be ridiculed and criticized by the world.

Người có tu học, thừa kế, và sử dụng tài vật thích hợp đúng người, đúng chỗ, đúng việc, và đúng lúc, thì họ có thể gặt hái và tạo thêm nhiều công đức. Người không có tu học, hoặc tu học nửa vời, thừa tự và dùng tài vật không đúng người, đúng chỗ, đúng việc, và không đúng lúc, thì họ tạo ra ít công đức, hoặc đôi lúc họ không gặt hái một tí công đức nào cả.   

Those who have cultivated, inherited, and used the material possessions properly with the right people, at the right places, at the right jobs, and at the right time, can reap and create more merit. People who do not practice cultivation, or practice half-heartedly, inherit and use the material possessions with the wrong people, in the wrong place, in the wrong job, and at the wrong time, they create little merit, or sometimes they do not reap any merit at all.

Qua quá trình tu tập tinh tấn và thừa tự tài vật thích hợp, chúng ta có thể tạo thêm nhiều phước đức; phước đức có được là nhờ quá trình chúng ta biết cách làm từ thiện, như ủng hộ sinh viên nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, và giúp người nghèo khổ. Có phước đức, chúng ta tu tập vững chãi và lâu bền, sống đúng với Phật Pháp trong tinh thần vô ngã và vị tha.

Through the process of cultivating diligently and inheriting the material possessions properly, we can create more merit; the merit we obtain is thanks to the process we know how to do charity, such as supporting poor students, building houses of gratitude, helping the needy, etc. With merit and virtue, we practice strong and long-term cultivation, live in accordance with the Buddhadharma in the spirit of selflessness and altruism.

Ví dụ tiêu biểu, tịnh tài được người thí chủ cúng dường dùng để nuôi Tăng chúng tu học, và đào tạo Tăng tài, thì mình chỉ dùng số tịnh tài đó để lo cho việc nuôi tăng chúng mà thôi. Ngược lại, nếu mình dùng tịnh tài đó cho việc xây Chùa, đúc chuông, và tạo tượng, thì các việc làm đó đều mang ý nghĩa là làm việc cho Tam Bảo, song trong trường hợp này, các việc làm trên đều mang ý nghĩa không thích hợp bởi vì chúng ta sử dụng tịnh tài không đúng người, đúng chỗ, đúng việc, và không đúng lúc.

For typical example, money offered by donors is used for raising monastics to cultivate and train them to become talented and virtuous people, we only use that money for nurturing the monastics. Conversely, if we use that money for building a Temple, casting a bell, creating a statue, those affairs all mean working for the Triple Gem (the Buddha, the Dharma and the Sangha), but in this case, all of the above actions have inappropriate meanings because we use that money with the wrong people, in the wrong place, in the wrong job, and at the wrong time.

Tuy nhiên, có đôi lúc mình sử dụng đồng tiền của thí chủ cúng dường không thích hợp, không đúng lúc, không đúng nơi, và không đúng việc. Chẳng hạn như, tiền thí chủ cúng dường cho việc xây Chùa và Tháp, mình sử dụng tiền đó cho việc in Kinh sách. Việc làm của mình như thế là không đúng. Là hành giả chân chánh, chúng ta cố gắng sửa đổi và chuyển hóa những ý nghĩ, lời nói, và việc làm không chân chánh thành những ý nghĩ, lời nói và việc làm chân chánh để đem lại niềm tin và uy tín cho tự thân và cho đoàn thể. Do vậy, nếu tiền dùng để nuôi Tăng chúng và đào tạo tăng ni tài đức, thì mình chỉ sử dụng đồng tiền đó để lo cho Tăng chúng mà thôi. Tiền để xây Chùa thì mình dùng đồng tiền đó cho việc xây Chùa mà thôi. However, there are times when we use the money offered by donors inappropriately, at the wrong time, in the wrong place, and in the wrong job. For instance, money is offered by donors for building a Temple, a Stupa, we use that money for printing Scriptures. What we did like that was not right. As good practitioners, we try to correct and transform wrong thoughts, speeches, and actions into right thoughts, speeches and actions to bring confidence and prestige for ourselves and for the communities. Therefore, if the money is used to raise the Sangha and train talented and virtuous monastics, then we only use that money to take care of the Sangha. Money to build the Temple, we use that money only for the construction of the Temple.

Qua các việc đề cập ở trên, chúng ta cần phải cẩn thận và ý thức rõ về việc thừa tự tài vật của người đàn việt. Dù việc nhỏ hay việc lớn chúng ta thừa tự tài vật đúng pháp trong ý thức chánh niệm và tĩnh giác, thì điều đó có khả năng đem lại an vui và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại. Lúc bấy giờ, những gì mình làm khi người ta nghe và thấy, thì họ đều sinh tâm vui và ủng hộ chúng ta liền. Năng lượng tu tập, kinh nghiệm sống, áng sáng từ bi và trí huệ, an lạc và hạnh phúc trong ta có khả năng tỏa sáng đến nhiều người.

Through the above-mentioned things, we need to be careful and fully aware of inheriting material possessions of almsgivers. Whether small things or big things we inherit material possessions in the right way in the sense of mindfulness and awareness, this has the capacity to bring peace and happiness to the majority right in the present life. At that time, what we have done when people hear and see, they generate joy and support us right away. The energy of cultivation, life experience, the light of compassion and wisdom, peacefulness and happiness in us has the ability to illuminate many people.

Như vậy, thừa tự tài vật, ta tiêu thụ một ngày một lượng vàng cho các việc từ thiện đúng người, đúng việc, đúng chỗ, và đúng lúc, chúng ta cảm thấy an vui và an tâm, mà người khác cũng cảm thấy hoan hỷ. Nếu thừa tự tài vật cho việc làm từ thiện không thích hợp, không đúng người, đúng việc, đúng chỗ, và không đúng lúc, chúng ta tiêu thụ một ngày chỉ một tí vàng, tâm ta cảm thấy không an, không vui, lòng ta cảm thấy nao nao khó chịu. Đôi lúc chúng ta lại bị thế gian chỉ trích và chê trách.

Thus, inheriting material possessions, we consume an amount of gold a day for charity works in the right people, at the right job, at the right place, and at the right time, we feel happy and secure, but other people also feel glad and joyful. If inheriting material possessions for charity is not appropriate, not in the right people, at the right job, at the right place, and not at the right time, we consume a little bit of gold a day, our mind feels unsecure and unhappy, our heart feels uneasy and uncomfortable. Sometimes we are criticized and reproached by the world.

Người cúng được phước rất nhiều, nhưng chúng ta nhận được phước rất ít bởi vì chúng ta sử dụng những thứ cúng dường của người thí chủ không đúng pháp. Những ai thừa tự tài vật mà không nỗ lực tu tập và chuyển hóa nội tâm, thì chỗ này, người ấy không dễ gì gặt hái được công đức và phước đức. Một khi công đức họ không đạt được, thì làm gì họ có được phước đức. 

Donors gets very much merit, but we get very little merit because we use the donors’ offerings in the wrong way. Those who inherit material possessions do not make efforts to cultivate and transform internal mind, in this point, it is not easy for them to reap merit and virtue. Once they don't get merit, how can they get virtuous blessing?

Trong trường hợp này, người cúng tức là người thí chủ được ví như con dao, người được cúng tức là hành giả được ví như cục đá mài. Nếu nhận của cúng dường của người thí chủ, hành giả không lo tu tập tinh tấn, không sống đời sống chánh niệm và tĩnh giác, dùng đồ cúng dường của người thí chủ để làm việc từ thiện không thích hợp, không đúng người, đúng việc, đúng chỗ, và không đúng lúc, thì cục đá mài của hành giả càng ngày càng mòn, tức phước đức của hành giả càng ngày càng giảm. Ngược lại, con dao của người thí chủ cúng dường càng ngày càng bén, tức phước đức của người thí chủ càng ngày càng tăng trưởng.

In this case, a person offering who is a donor is likened to a knife, the offered person who is a practitioner is likened to a grinding stone. If receiving material possessions from almsgivers, the practitioner who does not cultivate diligently does not live a life mindfulness and awakening, uses donations from almsgivers to do the charitable things not appropriately, not in the right people, at the right job, in the right place, and not at the right time, the grinding stone of the practitioner becomes more and more worn, namely virtuous blessing of the practitioner gets more and more decreasing. Conversely, the almsgiver’s knife is sharper and sharper, namely virtuous blessing of the almsgiver gets more and more increasing.

 

 

Phước đức không có hình tướng, nhưng nó biểu hiện trong đời sống tu tập của mỗi chúng ta. Phước đức có thể thấy được qua đời sống an vui và hạnh phúc của tự viện, trong đó thầy cô giáo và học trò là những thức giả và hành giả xuất sĩ nguyện sống cuộc đời tỉnh thức có sự hòa hợp, thương yêu, và hiểu biết của tình pháp lữ đồng tu, tình huynh đệ để cùng nhau tu tập Phật Pháp và làm lợi lạc nhân sanh.

Virtuous blessing has no sign, but it manifests itself in the cultivated life of each of us. Virtuous blessing can be seen via the peaceful and happy life of monastery, in which teachers and students are wise people and practitioners vowing to live their lives of awakening with harmony, love, and understanding of fellow practitioners, sisterhood, and brotherhood in order to jointly practice the Buddhadharma and benefit human beings.

Ý thức việc ấy rõ được như vậy, chúng ta khéo biết tu tập, sống đời sống chánh niệm và tĩnh giác, biết sử dụng vật chất cúng dường của người đàn việt một cách thông minh để làm việc từ thiện thích hợp, thì niềm tin và uy tín của ta sẽ tăng trưởng. Khi nghe những việc ta làm chân chánh, thì mọi người ai nấy đều hoan hỷ phát tâm và sẳn sàng ủng hộ cho ta cả vật chất lẫn tinh thần. Khi hiểu và thực tập được như vậy, thì thầy cô giáo và học trò cùng người đàn việt đều cảm thấy vui và phấn khởi trong lòng. Từ đây, an lạc và hạnh phúc có khả năng thấm nhuần và mát dịu thân tâm xuyên qua việc hành trì và ứng dụng những lời Phật dạy vào trong cuộc sống hằng ngày để làm lợi ích cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

Being aware of it very clearly, we know how to practice well, live a life of mindfulness and awareness, know how to use material possessions offered by almsgivers intelligently to do appropriate charity work, our trust and prestige will grow up. When we hear what we do righteously, everyone is happy and willing to support us both materially and spiritually. When understanding and practicing so, teachers, students, along with almsgivers feel happy in their hearts. From here, peace and happiness have the ability to permeate and cool the body and mind through the practice and application of the Buddha’s teachings in their daily lives to benefit the many right in the present life.

Như vậy, thừa tự Pháp và thừa tự tài vật đã thảo luận xong. Tiếp theo, chúng ta sẽ tiếp tục thảo luận các khía cạnh tri ân và nhớ ân giữa thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo trong các buổi Lễ Tạ Ơn hay Lễ Thù Ân của Phật giáo.

Thus, the Dharma inheritance and the material inheritance have been discussed. Next, we will continue to discuss the aspects of knowing gratitude and remembering gratitude between teachers and students, students and teachers in the Ceremonies of Thanksgiving or Grateful Repayment of Buddhism.

Như quý vị biết cứ mỗi nữa tháng vào buổi sáng sớm, các vị xuất Sĩ ở trong chốn thiền môn thường làm lễ Tạ ơn. Trong buổi lễ này, các vị một lòng đảnh lễ các ơn khác nhau như sau: Ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ; ơn Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo đã cho chúng con có sắc thân đức hạnh, thiền định, và trí tuệ; ơn các thầy cô giáo về sự dạy dỗ, trao truyền, và hướng dẫn; ơn những người đàn việt về sự hỗ trợ và cúng dường; ơn những anh hùng dân tộc về sự dựng nước và giữ nước; ơn các các quốc gia nơi mình sinh ra, lớn lên, sinh sống, và làm việc; ơn các môi trường thiên nhiên lành mạnh về sự bảo hộ và che chở khéo léo với tâm từ bi của con người; ơn các vị tổ Sư về việc hoằng dương chánh Pháp và phục vụ nhân sinh từ nghìn xưa cho tới ngày nay; ơn quý các vị đệ tử về việc tiếp nối và kế thừa, v.v…

As we know every month in the early morning, the monastics in the different Buddhist Temples usually perform the Thanksgiving Ceremony. In this Ceremony, they wholeheartedly pay respects to different kinds of gratitude as follows: Gratitude to parents for their giving birth and upbringing; gratitude to the Buddha Jewel, the Dharma Jewel, and the Sangha Jewel for giving us bodies of virtue, meditation, and wisdom; gratitude to teachers for their teaching, transmission and instruction; gratitude to almsgivers for their support and donations; gratitude to the national heroes for building and defending the country; gratitude to the countries where you were born, have grown up, lived, and worked; gratitude to healthy natural environments for the auspices and skillful protections of people; gratitude to Patriarchs for their Dharma propagation and service to humanity from ancient time until the present time; gratitude to disciples for their Dharma inheritance and continuation, so on and so forth.

Trong các loại tri ơn khác nhau đó, trong bài viết này, người viết chỉ đề cập tới các mối liên hệ tốt đẹp và mật thiết giữa quý thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo mà thôi.

Trong buổi Lễ Thù Ân, ngoài việc xướng lễ và đảnh lễ các loại ơn được thảo luận ở trên ra, người hành giả còn đảnh lễ ơn thầy cô và ơn học trò tiếp theo. Để tỏ lòng tôn kính và quý trọng những thầy cô giáo, người học trò đảnh lễ quý thầy cô giáo như thế này.  “Đệ tử chúng con nhớ ơn sự che chở, bảo hộ, và dạy dỗ của quý Thầy cô giáo, cúi đầu đảnh lễ Phật, Pháp và Tăng thường trú trong nhiều phương.

Of the different kinds of gratitude, in this article, the writer merely mentions the good and intimate relationships between teachers and students, students and teachers only. In a Repayment Ceremony, apart from chanting and paying respects to the kinds of the above-discussed gratitude, practitioners still pay respects to the following gratitude between teachers and students. To express deep respect and esteem to teachers, students pay homage to their teachers like this. “We the disciples who would like to thank our teachers for your guardianship, protection, and instruction, bow down and pay homage to the Buddha, the Dharma, and the Sangha residing permanently in many directions.

Trong quá trình tu và học, người học trò học rất nhiều lời hay ý đẹp, đặc biệt là kinh nghiệm sống và kinh nghiệm tu tập từ người thầy sư cô bổn sư và các vị y chỉ sư. Ngoài việc học trực tiếp và gián tiếp từ các vị thầy cô đạo học, người học trò còn học nhiều điều đạo đức, giáo dục, khoa học, y học, triết học… không những từ các vị thầy cô đạo học, mà còn các vị thầy cô thế học, người học trò đều ghi ơn và nhớ ơn họ sâu sắc.

In the process of Dharma cultivation and learning, students learn a lot of beautiful words and nice ideas, especially life experience and cultivation experience from the first teacher and other teachers. In addition to learning directly and indirectly from the Dharma teachers, the students also learn many things about virtue, education, science, medicine, philosophy, etc., not only from Dharma teachers, but also from secular teachers, the students are thankful and grateful to them deeply.

Theo văn hóa và tinh thần hướng thượng và hướng thiện, những ai mà dạy cho ta một kinh nghiệm sống, một lời nói hay, một ý nghĩa hay, một việc làm hữu ích và thiết thực, thì họ là thầy cô giáo của ta. Thật vậy, trong giáo dục Phật giáo, người thầy cô thường đóng vai trò quan trọng của người chỉ đường, chỉ cho các đệ tử thấy rõ con đường an vui và hạnh phúc. Con đường an lạc này được ví như con đường xa lộ có tám làn xe (lane) tương tức với nhau. Mỗi làn xe chạy tượng trưng cho một điều chân chánh, tám làn xe tượng trưng cho tám điều chân chánh gồm có: “Cái nhìn chân chánh, ý nghĩ chân chánh, lời nói chân chánh, hành động chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, tinh tấn chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh, thiền định chân chánh.[29]

According to the culture and spirit of upward and good direction, those who teach us a life experience, a good speech, a good meaning, a useful and practical work are our teachers. Indeed, in Buddhist education, teachers often play very important roles of the guides showing the disciples the path of peace and happiness. This peaceful path is likened to an interconnected eight-lane freeway. Each lane represents a right thing, eight lanes symbolize eight right things including: “Right view, right thought, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness and right concentration[30]

Tám làn xe được thâu nhiếp trong một con đường, tám điều chân chánh được thâu nhiếp trong an vui và giải thoát; an vui trong tu tập, giải thoát trong hành trì và ứng dụng Phật pháp vào trong cuộc sống hằng ngày của mình để làm lợi lạc nhân sanh.

Một là tám. Tám là một và là tất cả. Cả tám và một, một và tám đều bổ sung cho nhau như hình với bóng. Cả thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo đều nương tựa và hỗ trợ với nhau trong đời sống tu tập, an lạc, và hạnh phúc, cùng nhau hướng tới giác ngộ và giải thoát tâm linh như sóng với nước, không thể tách rời nhau được. Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì cả thầy cô giáo và học trò đều cảm thấy hạnh phúc và an vui qua việc học pháp, hiểu pháp, hành pháp, hộ pháp, và hoằng pháp. Cả thầy cô giáo và học trò đều có khả năng đem lại hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

Eight lanes are gathered in a path, eight right things are collected in peace and liberation; peace in cultivation, liberation in practice, and application of the Buddhadharma in our daily lives to benefit human beings. One is eight. Eight is one and all. Both eight and one, one and eight support together like image with its shadow. Both teachers and students, students and teachers take refuge in and support each other in their lives of cultivation, peace, and happiness, together towards enlightenment and spiritual liberation like waves with water, they cannot separate from each other. When they understand and practice so, both teachers and students feel happy and peaceful through studying the Dharma, understanding the Dharma, practicing the Dharma, protecting the Dharma, and spreading the Dharma. Both teachers and students have the ability to bring the flowers and fruits of peacefulness and happiness right here and right now in the present life.

 Tiếp đến, để tỏ lòng vui mừng khi thấy các người học trò của mình giỏi hơn mình, người thầy khởi tâm niệm hoan hỷ động viên như sau: Con giỏi hơn cha mẹ là nhà có phúc, trò giỏi hơn thầy là trường có phúc, đệ tử giỏi hơn thầy là Chùa có phúc. Dĩ nhiên, cha mẹ và thầy tổ giỏi hơn con cái và đệ tử của họ, gia đình và nhà chùa của họ có phúc.

Next, in order to express their happy hearts when they see that the students are better than the teachers, the teachers start to think of joy and encouragement as follows: Children are better than parents whose house has virtuous blessings, the students are better than the teachers whose school has virtuous blessings, the disciples are better than the teachers whose Temple has virtuous blessings. Of course, parents and teachers are better than their children and disciples, their families and Temples have virtuous blessings.

Chúng ta biết trong giáo dục đạo học cũng như thế học, những người thầy cô giáo luôn luôn mong mỏi các thế hệ đi sau giỏi hơn các thế hệ đi trước về các khía cạnh tài năng, trí tuệ, đức hạnh, v.v… Trong các ngữ cảnh giáo dục Phật giáo, nhà trường và nhà Chùa được xem như là những môi trường giáo dục Phật học ở tu viện và ở đại Tùng Lâm, học trò được xem như là các vị đệ tử có khả năng ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày để giúp đời thêm vui bớt khổ ngay tại thế gian này.

We know in secular education as well as Dharma education, teachers always expect next generations to be better than previous generations about aspects of talent, wisdom, virtue, etc. Indeed, in the contexts of Buddhist education, schools and the Temples are seen as environments of Buddhist studies in monasteries and in maha viharas, students are seen as disciples capable of applying Buddhadharma into everyday life to help life add joy and lessen suffering right in this world.

Hơn nữa, chúng ta biết khi đào tạo các thế hệ tuổi trẻ, các người cha, người mẹ, và người thầy cô giáo luôn mong muốn các người con, người học trò, và người đệ tử của mình giỏi hơn mình. Với cái nhìn trong sáng về tương lai, các thế hệ đi sau mà giỏi hơn các thế hệ đi trước, đặc biệt là ở khía cạnh tài năng, trí tuệ, và đức hạnh, thì họ có khả năng xây dựng và phát triển hòa bình, thịnh vượng, đạo pháp, và dân tộc bằng con đường đức trị và pháp trị, cụ thể là con đường có tám phương pháp tu tập và ứng dụng vào trong cuộc sống tu tập hàng ngày để làm lợi lạc cho quần sinh. Khi hiểu và thực hành được như vậy, mọi người đều nếm được Pháp hỷ và Pháp lạc ngay tại thế gian này.

Moreover, we know that when training young generations, fathers, mothers and teachers always wish their children, students, and disciples to be better than themselves. With a bright view of the future, the following generations are better than the predecessors, especially in talent, wisdom and virtue, they are capable of building and developing peace and prosperity, the Dharma, and the nation by the path of Dharma law and worldly law, namely the path with eight cultivation methods and applications in daily practice life to benefit sentient beings. When understanding and practicing so, everyone tastes Dharma joy and Dharma happiness right here and right now in the present life.

Với tâm niệm giáo dục và đào tạo những người kế thừa và tiếp nối Phật Pháp trong hiện tại và trong tương lai, khi áp dụng và thực hành những lời Phật dạy vào trong đời sống hàng ngày một các đều đặn, vững chãi, và thảnh thơi, hướng về đức Phật tự tâm, các thầy cô thường khởi tâm xướng và đảnh lễ như sau: “Đệ tử chúng con nhớ ơn các vị đệ tử, những người có công tiếp nối ánh sáng của chánh Pháp, cúi đầu đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng thường trú trong nhiều phương.

With the mind of educating and training those who inherit and continue the Buddhadharma in the present and in the future, when applying and practicing the Buddha’s teachings into the daily life regularly, stably, and relaxedly, directing towards his own Buddha, teachers often initiate and pay respects as follows: “We disciples who are grateful to our disciples for their linkage of the light of the Dharma, bow down and pay homage to the Buddha, the Dharma and the Sangha residing permanently in directions.

Thật vậy, khi chọn cho mình hướng đi trong sáng, an lạc và tự do, cả thầy cô giáo và học trò nguyện cùng nhau thắp sáng lên ánh sáng của chánh Pháp, thắp sáng lên ánh sáng của tình thương cho các thế hệ hiện tại cũng như các thế hệ tương lai. Các vị là những người hành giả đích thực có khả năng đem lại hòa bình, an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân trên khắp hành tinh này.

Indeed, when choosing them the direction of going brightly, peacefully and freely, both teachers and students vow to light up the light of the Dharma together, light up the light of love for the present generations as well as the future generations. They are authentic practitioners with the ability to bring peace, peacefulness and happiness to themselves and to others all over this planet.

Hơn nữa, là người hành giả tu tập đạo tỉnh thức, trên bước đường tu tập hướng thượng, hướng thiện, hướng tới an vui, hạnh phúc, và giải thoát cho tự thân và cho tha nhân, cả thầy cô giáo và học trò luôn luôn hiểu và nhận diện những ý nghĩ, lời nói, và hành động chánh niệm và tĩnh giác.

Moreover, as practitioners practicing the awakening path, on the path of cultivation towards the upper, towards the good, towards peacefulness, happiness, and liberation for themselves and for other people, both teachers and students always understand and recognize their mindful thoughts, words, and actions that are mindful and awakening.

Theo thông lệ hằng năm, trong ba tháng An Cư Kiết Hạ của Tăng đoàn, có một ngày kết thúc khóa tu ba tháng; ngày kết thúc đó được gọi là ngày hoan hỷ, ngày Tết của chư vị xuất Sĩ, cùng đối mặt với nhau để làm lễ nhận diện những điều họ đã tu tập nơi Đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh và bày tỏ tấm lòng quý kính ​và tôn trọng lẫn nhau và nói lên rằng:

According to the annual practice, in the three months of the Sangha's summer Retreat or Raining Retreat (vassa vassa), there is a day to end the three-month retreat; that closing day is called the day of joy, the Tết holiday of monastics, facing each other to perform a ceremony to recognize what they had practiced in the dignified and pure Dharma center and to express their mutual respect and esteem ​and say:

“Trong những ngày tu tập Phật Pháp với Đại Chúng, nếu mình có những điều gì chánh niệm hoặc thiếu chánh niệm, xin các bạn đồng tu hoan hỷ chỉ cho mình những điều tốt để mình biết cách phát huy và tăng trưởng; những điều không tốt để mình biết sửa đổi và chuyển hóa chúng. Nơi đạo tràng này, mình xin chân thành ghi nhận và tri ơn những điều chỉ giáo của các bạn đồng hành.

Xét thấy nếu mình có những điểm yếu kém do thiếu chánh niệm gây ra, mình hứa với lòng mình nguyện không lập lại lỗi lầm xưa, hoặc nếu mình có những điều tốt và lợi ích do chánh niệm hình thành, mình dặn với lòng mình cố gắng duy trì và phát huy những điều lợi ích đó để đem lại an và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

“During the days of practicing Buddhadharma with the Great Assembly if I have something mindful or deficiently mindful, please beg fellow practitioners happily to show me the good things so I know how to promote and increase them; the non-good things for me to know how to correct and transform them. In this Dharma Center, I would like to sincerely acknowledge and be grateful to fellow practitioners for their instructions.

Realizing that if I have weaknesses caused by lack of mindfulness, I promise my heart not to repeat the last mistake, or if I have good and beneficial things created by right mindfulness, I tell my heart to try to maintain and promote the benefits to bring peacefulness and happiness to the many right in the present life.”

Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì cả thầy cô giáo và trò, học trò và thầy cô giáo có thể cùng nhau góp phần đem đạo vào đời và giúp đời thêm vui bớt khổ. Trong cuộc sống hằng ngày, những người cư sĩ và người xuất sĩ cùng nhau hiểu, thực hành, và áp dụng những lời dạy của Đức Thế Tôn vào trong cuộc sống hằng ngày một cách tinh chuyên, uyển chuyển, chánh niệm, tĩnh giác, vững chãi, và thảnh thơi, thì chư vị có khả năng đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân trong gia đình, học đường, công sở, và trong xã hội.

When understanding and practicing so, both teachers and students, students and teachers can together contribute to bringing the Dharma into life and making life more joyful and less suffering. In everyday life, lay Buddhists and monastics together understand and apply the World-Honored One’s teachings into their daily lives diligently, flexibly, mindfully, wakefully, stably, and relaxedly, they have the ability to bring joy and happiness for themselves and for other people in in the family, at school, in the workplace, in the office, and in society.

Tóm lại, qua những gì đề cập ở trên, các mối liên hệ giữa thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo là những mối liên hệ đặc thù trong giáo dục Phật giáo được nối kết tương tức với nhau bằng ý nghĩ, lời nói, và việc làm thương yêu và hiểu biết bằng tình thầy cô giáo và học trò, bằng tình huynh đệ, tình pháp lữ đồng tu, bằng tình hộ pháp và hoằng pháp qua việc thực hành và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại an lạc và hạnh phúc cho nhiều người.

To sum up, through the above-mentioned things, the relationships between teachers and students, students and teachers are specific relationships in Buddhist education interconnected with one another by thoughts, speeches, and actions of love and understanding by love of teachers and students, by love of sisterhood, brotherhood, love of dharma friends, fellow practitioners, by love of the Dharma protection and Dharma propagation through the practice and application of the Buddhadharma in their daily lives to bring peacefulness and happiness to many people.

Những mối liên hệ mật thiết này rất thiết thực hiện tại được thắt chặt với nhau bằng chất liệu tu tập, bằng tình tương trợ, tương thân, tương ái, tương kính, hòa hợp, và đoàn kết, bằng sự trao truyền và tiếp nối, bằng sự hướng dẫn và kế thừa chánh Pháp của Đức Thế Tôn một cách chánh niệm và tĩnh giác, thì cả thầy cô giáo và học trò, học trò và thầy cô giáo đều là những hành giả an vui và giải thoát có khả năng bảo hộ, duy trì, và phát triển đạo Phật ở hiện tại cũng như ở tương lai một cách xán lạn và huy hoàng trên khắp thế gian này.

Kính chúc quý vị an trú và thấm nhuần chánh Pháp của Đức Thế Tôn.

                                                            By Thích Trừng Sỹ

 

The intimate relationships which are very practical in the present are tightened together by the substance of cultivation, by mutual assistance, mutual affection, mutual love, mutual respect, harmony, and solidarity, by transmission and continuation, by guidance and inheritance of the Dharma of World-Honored One mindfully and consciously, both teachers and students, students and teachers that are practitioners of peacefulness and liberation have the capacity to protect, uphold. and develop Buddhism in the present as well as in the future brightly and splendidly all over the world.

Respectfully wishing you full of peace, joy, stability, and freedom, and imbued with the Dharma of the World-Honored One.

By Thích Trừng Sỹ  

 

 



[1]   Xem Pāli-English Dictionary. Eds. T. W. Rhys Davids & W. Stede, London: Pāli Text Society, 1921-25. (First Indian reprint, 

    New Delhi: Oriental Books Reprint Corporation, 1975): 11 & 708.

[2]   Rousseau J J A. Discourse on the Origin of Inequality. London: 1970: 169.

[3]   Swami Sivananda. Religious Education. 1983, Ch. I, Bliss Divine, 1991: 126.

[4]    Thích Nhất Hạnh. The Heart of The Buddha’s Teaching. New York: Parallax Press, 1999: 246-7.

[5]    Xem Pháp Cú, kệ số 88, 97, 378.

[6] Trường A Hàm, (Dīrghāgama)Phần II, Kinh số 16, và Kinh Bộ Kinh (Dīgha Nikaya), Kinh số 31.

[7]  Xem Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta) thuộc Tương Ương Bộ (Samyutta Nikaya, 56: 11).

[8]   See Pāli-English Dictionary. Eds. T. W. Rhys Davids & W. Stede, London: Pāli Text Society, 1921-25. (First Indian reprint, 

    New Delhi: Oriental Books Reprint Corporation, 1975): 11 & 708.

[9]    Rousseau J J A. Discourse on the Origin of Inequality. London: 1970: 169.

[10]    Swami Sivananda. Religious Education. 1983, Ch. I, Bliss Divine, 1991: 126.

[11]    Dhp. v. 183.

[12]  Thích Nhất Hạnh. The Heart of The Buddha’s Teaching. New York: Parallax Press, 1999: 246-7.

[13]   Dhp. v. 88, 97, 378.

[14] Dīrghāgama, Part II, Sutra 16, and Dīgha Nikaya, Sutta 31.

[15]  See the Discourse on the Turning of the Dhamma Wheel (Dhammacakkappavattana Sutta) of Connected Discourses on the

   Truths (Samyutta Nikaya, 56: 11).    

[16]   Xem Pāli-English Dictionary. Eds. T. W. Rhys Davids & W. Stede, London: Pāli Text Society, 1921-25. (First Indian reprint, 

    New Delhi: Oriental Books Reprint Corporation, 1975): 11 & 708.

[17]   Rousseau J J A. Discourse on the Origin of Inequality. London: 1970: 169.

[18]   Swami Sivananda. Religious Education. 1983, Ch. I, Bliss Divine, 1991: 126.

[19]   See Pāli-English Dictionary. Eds. T. W. Rhys Davids & W. Stede, London: Pāli Text Society, 1921-25. (First Indian reprint, 

    New Delhi: Oriental Books Reprint Corporation, 1975): 11 & 708.

[20]    Rousseau J J A. Discourse on the Origin of Inequality. London: 1970: 169.

[21]    Swami Sivananda. Religious Education. 1983, Ch. I, Bliss Divine, 1991: 126.

[22]    Thích Nhất Hạnh. The Heart of The Buddha’s Teaching. New York: Parallax Press, 1999: 246-7.

[23]    Xem Pháp Cú, kệ số 88, 97, 378.

[24]    Dhp. v. 183.

[25]  Thích Nhất Hạnh. The Heart of The Buddha’s Teaching. New York: Parallax Press, 1999: 246-7.

[26]   Dhp. v. 88, 97, 378.

[27] Trường A Hàm, (Dīrghāgama)Phần II, Kinh số 16, và Kinh Bộ Kinh (Dīgha Nikaya), Kinh số 31.

[28] Dīrghāgama, Part II, Sutra 16, and Dīgha Nikaya, Sutta 31.

[29]  Xem Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta) thuộc Tương Ương Bộ (Samyutta Nikaya, 56: 11).

[30]  See the Discourse on the Turning of the Dhamma Wheel (Dhammacakkappavattana Sutta) of Connected Discourses on the

   Truths (Samyutta Nikaya, 56: 11).    

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập