Buddhist Today

Bản Sanh: truyện 241 tới 250 / Jataka Tales: Stories 241–250

Đề Bà Đạt Đa học hỏi mọi điều từ Đức Phật nhưng cuối cùng lại chối bỏ Ngài. Đức Phật kể lại câu chuyện về một nhạc sĩ dạy học trò của mình, nhưng người học trò này lại thách thức thầy trước mặt mọi người. Khi Vua Trời Sakka thấy điều này, Sakka đã giúp vị thầy chiến thắng cuộc thi và sau đó đưa vị thầy lên cõi trời.

Nguyên bản: Pali

Anh dịch: W.H.D. Rouse và Ānandajoti Bhikkhu

Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác

J241. Sabbadatha Jātaka -- Chó Rừng Kiêu Ngạo và Câu Thần Chú Quyền Năng

Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa đã giành được danh tiếng và sự ủng hộ, nhưng không thể duy trì được. Đức Phật kể câu chuyện về một con chó rừng học được thần chú và chế ngự được muôn loài, nhưng lại bị chính lòng kiêu ngạo của hắn lừa gạt, khiến hắn bị diệt vong.

.

Câu chuyện Đức Phật kể tại Rừng Trúc, về Đề Bà Đạt Đa.

Một hôm, các nhà sư đang trò chuyện trong Chánh Pháp Đường. Họ nói: "Đề Bà Đạt Đa từng có danh vọng và sự ủng hộ, nhưng ông ta không thể giữ được. Chuyện tương tự đã xảy ra từ lâu." Đức Phật kể câu chuyện này từ quá khứ.

Ngày xưa, tại thành Benares, có một vị vua thông thái tên là Brahmadatta. Vị cố vấn tâm linh của ngài là Bồ Tát, người đã thông thạo nhiều giáo lý thiêng liêng. Ngài biết một câu thần chú mạnh mẽ gọi là "Điều phục thế gian", chỉ có thể học được thông qua thiền định sâu sắc và một nghi lễ đặc biệt.

Một ngày nọ, Bồ Tát ngồi một mình trên một tảng đá phẳng để tụng thần chú. Gần đó, ẩn mình trong một cái hang, một con chó rừng lặng lẽ lắng nghe. Con chó rừng này, trong một kiếp trước, là một vị Bà La Môn uyên bác, người đã từng biết câu thần chú tương tự. Khi Bồ Tát tụng, con chó rừng nhớ lại câu thần chú và học lại.

Khi Bồ Tát đọc xong, ngài nói: "Giờ ta đã biết câu thần chú rồi."

Nhưng con chó rừng nhảy ra và hét lên: "Ta biết rõ hơn ngươi!" Rồi nó chạy vào rừng.

Bồ Tát đuổi theo, cảnh báo: "Con chó rừng đó sẽ gây ra tai họa lớn!"

Con chó rừng tìm thấy một con chó rừng cái và cắn nhẹ vào nó. "Nàng có biết ta là ai không?" nó hỏi.

"Không," con chó rừng cái trả lời.

Hắn đọc thần chú, và đột nhiên hàng trăm con chó rừng vâng lời. Chẳng bao lâu, voi, ngựa, sư tử, hổ, lợn, hươu và nhiều loài động vật khác tụ tập quanh nó. Hắn trở thành vua của chúng và được gọi là Sabbadatha, có nghĩa là "Alltusk". Hắn lập con chó rừng cái làm hoàng hậu. Chúng ngồi kiêu hãnh trên một con sư tử, con sư tử đứng trên hai con voi, và tất cả các loài vật đều tôn kính chúng.

Nhưng Sabbadatha trở nên kiêu ngạo và tham lam. Hắn muốn chinh phục Benares. Vì vậy, hắn hành quân cùng đội quân thú của mình, bao phủ mười hai dặm đất. Hắn sai người đến báo tin cho nhà vua: "Hãy từ bỏ vương quốc của ngươi hoặc chuẩn bị chiến đấu." Dân chúng Benares kinh hãi và đóng chặt cổng thành.

Bồ Tát nói với nhà vua: "Đừng sợ. Thần sẽ đối mặt với Sabbadatha. Chỉ có thần mới có thể đánh bại hắn." Sau đó, ngài leo lên một tòa tháp và hét lớn: "Sabbadatha, ngươi định chiếm thành này bằng cách nào?"

"Ta sẽ khiến sư tử gầm lên và dọa mọi người!" chó rừng đáp.

Bồ Tát nảy ra một ý. Ngài bảo dân chúng lấy bột nhét vào tai để không nghe thấy tiếng gầm. Ngay cả mèo và thú cưng cũng bịt tai lại.

Sau đó, ngài lại leo lên tháp và hỏi Sabbadatha: "Ngươi định chiếm thành bằng cách nào?"

"Ta sẽ khiến sư tử gầm lên và dọa mọi người!" Sabbadatha nói.

"Ngươi không thể bắt những con sư tử cao quý tuân lệnh mình được," Bồ Tát nói. "Chúng sẽ không nghe lời chó rừng đâu."

"Ồ, chúng sẽ nghe!" Sabbadatha hét lên. "Ngay cả con sư tử mà ta đang cưỡi cũng gầm lên!"

"Vậy thì cứ đi làm đi," Bồ Tát nói.

Sabbadatha vỗ nhẹ vào sư tử. Sư tử gầm lên ba tiếng thật to. Bầy voi sợ hãi đến nỗi thả Sabbadatha xuống và giẫm nát hắn dưới chân. Hắn chết ngay lập tức. Tiếng gầm cũng làm những con voi khác hoảng sợ, và chúng giẫm đạp lẫn nhau. Tất cả các loài động vật - hươu, lợn, thỏ rừng, thậm chí cả mèo - đều chết trong hỗn loạn. Chỉ có sư tử trốn thoát vào rừng. Mặt đất phủ đầy xác chết dài mười hai dặm.

Bồ Tát bước xuống từ tháp canh và mở cổng thành. Ngài ra lệnh: "Hãy lấy bột ra khỏi tai các ngươi! Ai muốn ăn thịt thì lấy!" Mọi người ăn những gì họ có thể và phơi khô phần còn lại. Người ta nói rằng đó là lần đầu tiên người ta bắt đầu phơi thịt.

Sau khi kể câu chuyện, Đức Phật nói: "Giống như con chó rừng kiêu ngạo tập hợp nhiều loài thú và trở nên nổi tiếng, Cũng vậy, một người có nhiều tùy tùng sẽ đạt được danh tiếng lớn. Nhưng kiêu ngạo sẽ dẫn đến sự sụp đổ."

Bấy giờ Đức Phật mới tiết lộ chân lý: “Đề Bà Đạt Đa là chó rừng. Ananda là vua. Còn ta là vị giáo sĩ thông thái.”

.... o ....

J241. Sabbadatha Jātaka -- The Proud Jackal and the Spell of Power

Summary: Devadatta managed to gain reputation and support but could not maintain it. The Buddha tells a story of a jackal who learned a spell and subdued the animal kingdom, only to be tricked by his own arrogance into causing his destruction.

.

A story the Buddha told at the Bamboo Grove, about Devadatta.

One day, the monks were talking in the Hall of Truth. They said, “Devadatta once gained fame and support, but he couldn’t keep it. Long ago, something similar happened.” Then the Buddha told this story from the past.

Long ago, in the city of Benares, there was a wise king named Brahmadatta. His spiritual advisor was the Bodhisatta, who had mastered many sacred teachings. He knew a powerful spell called “Subduing the World,” which could only be learned through deep meditation and a special ritual.

One day, the Bodhisatta sat alone on a flat stone to recite the spell. Nearby, hidden in a hole, a jackal listened quietly. This jackal, in a past life, had been a learned brahmin who once knew the same spell. As the Bodhisatta chanted, the jackal remembered the spell and learned it again.

When the Bodhisatta finished, he said, “Now I know the spell.”

But the jackal jumped out and shouted, “I know it better than you!” Then he ran off into the forest.

The Bodhisatta chased him, warning, “That jackal will cause great harm!”

The jackal found a female jackal and bit her gently. “Do you know who I am?” he asked.

“No,” she replied.

He recited the spell, and suddenly hundreds of jackals obeyed him. Soon, elephants, horses, lions, tigers, pigs, deer, and many other animals gathered around him. He became their king and was called Sabbadatha, meaning “Alltusk.” He made the she-jackal his queen. They sat proudly on a lion, who stood on two elephants, and all the animals honored them.

But Sabbadatha became proud and greedy. He wanted to conquer Benares. So he marched with his animal army, covering twelve leagues of land. He sent a message to the king: “Give up your kingdom or prepare to fight.” The people of Benares were terrified and locked their gates.

The Bodhisatta told the king, “Don’t be afraid. I will face Sabbadatha. Only I can defeat him.” Then he climbed a tower and called out, “Sabbadatha, how will you take this city?”

“I will make the lions roar and scare everyone!” the jackal replied.

The Bodhisatta had an idea. He told the people to plug their ears with flour so they wouldn’t hear the roar. Even cats and pets had their ears plugged.

Then he climbed the tower again and asked Sabbadatha, “How will you take the city?”

“I’ll make the lions roar and frighten everyone!” Sabbadatha said.

“You can’t make noble lions obey you,” said the Bodhisatta. “They won’t listen to a jackal.”

“Oh yes they will!” Sabbadatha shouted. “Even this lion I sit on will roar!”

“Then go ahead,” said the Bodhisatta.

Sabbadatha tapped the lion. The lion roared three times, loudly. The elephants were so scared they dropped Sabbadatha and crushed him underfoot. He died instantly. The roar frightened the other elephants too, and they trampled each other. All the animals—deer, pigs, hares, even cats—died in the chaos. Only the lions escaped into the forest. The ground was covered with bodies for twelve leagues.

The Bodhisatta came down from the tower and opened the city gates. He announced, “Take the flour out of your ears! Those who want meat, take it!” The people ate what they could and dried the rest. That was the first time, it is said, that people began drying meat.

After telling the story, the Buddha said: “Just like the proud jackal who gathered many animals and became famous, So too does a man with many followers gain great fame. But pride leads to downfall.”

Then the Buddha revealed the truth: “Devadatta was the jackal. Ananda was the king. And I was the wise chaplain.”

.... o ....

J242. Sunakha Jātaka -- Chú Chó Trung Thành Và Sợi Xích

Tóm tắt: Các nhà sư bàn luận về một con chó được nuôi gần tu viện, bị bán đi và bị bắt đi, nhưng nó nhanh chóng tìm được đường về nhà. Đức Phật đã kể một câu chuyện tương tự từ quá khứ về một con chó bị buộc bằng dây xích nhưng đã cắn đứt dây xích trong lúc người chủ mới đang ngủ và trốn thoát.

.

Câu chuyện Đức Phật kể tại Jetavana, về một chú chó gần tháp Ambala.

Ngày xưa, có một chú chó sống trong nhà nghỉ gần tháp Ambala từ khi còn nhỏ. Những người gánh nước gần đó cho nó ăn hàng ngày, và theo thời gian, nó lớn lên thành một chú chó khỏe mạnh, cường tráng.

Một ngày nọ, một người dân làng nhìn thấy chú chó và thấy thích. Ông ta tặng những người gánh nước một chiếc áo ấm và một đồng rupee để đổi lấy. Họ đồng ý, và người đàn ông dắt chú chó đi, trói nó bằng một sợi xích.

Chú chó không chống cự. Nó lặng lẽ đi theo người đàn ông và ăn bất cứ thức ăn nào được cho. Người đàn ông nghĩ, "Con chó này chắc hẳn rất thích ta," và quyết định tháo xích cho nó.

Nhưng ngay khi được thả ra, chú chó đã bỏ chạy - thẳng về nhà nghỉ nơi nó đã lớn lên.

Các nhà sư nhìn thấy nó quay lại và đoán được chuyện gì đã xảy ra. Tối hôm đó, tại Chánh Điện, mọi người bàn tán: “Kìa! Con chó đã trở về! Chắc hẳn nó khôn lắm mới thoát khỏi xiềng xích. Vừa thoát khỏi xiềng xích, nó đã trở về nhà!”

Đức Phật bước vào và hỏi họ đang bàn tán chuyện gì. Họ kể lại câu chuyện cho Ngài nghe. Ngài nói: “Đây không phải lần đầu tiên con chó thoát khỏi xiềng xích. Nó đã từng làm như vậy từ lâu rồi.” Rồi Ngài kể lại câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Benares, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình giàu có ở xứ Kasi. Lớn lên, Ngài xây dựng một ngôi nhà cho riêng mình.

Ở Benares, có một người đàn ông nuôi một con chó được nuôi bằng cơm và đã lớn lên. Một hôm, một người dân làng nhìn thấy con chó liền dâng tặng chủ một bộ quần áo đẹp và một đồng tiền. Người đàn ông nhận lời, và người dân làng mang con chó đi, trói nó lại bằng dây thừng.

Khi họ đến bìa rừng, người dân làng dừng lại ở một túp lều, trói con chó lại và đi ngủ.

Đúng lúc đó, Bồ Tát tình cờ đi ngang qua. Ngài thấy con chó bị trói liền nói một cách hiền từ:

"Này con chó ngu ngốc, sao ngươi không cắn đứt sợi dây đang trói chặt ngươi? Chỉ một lát nữa thôi là ngươi sẽ được tự do, rồi chạy đi với nụ cười hân hoan!"

Con chó đáp:

"Tôi kiên nhẫn, bình tĩnh và sáng suốt—Tôi chờ đúng lúc để thức dậy. Tôi sẽ canh chừng và đợi cho đến khi họ ngủ, Rồi tôi sẽ trốn thoát mà không một tiếng động."

Và đúng như lời nói, khi mọi người đã ngủ say, con chó lặng lẽ gặm đứt sợi dây và chạy về nhà cũ, lòng tràn đầy niềm vui.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: "Con chó trong cả hai câu chuyện đều giống nhau. Và ta chính là người sáng suốt đã nói chuyện với nó."

.... o ....

J242. Sunakha Jātaka -- The Loyal Dog and the Chain

Summary: The monks are discussing a dog that was raised near their monastery, sold, and taken away, but quickly found its way back home. The Buddha shared a similar story from the past about a dog that was tied with a leash but bit through it while its new owners were asleep and escaped.

.

A story the Buddha told at Jetavana, about a dog by the Ambala tower.

There was once a dog who had lived since he was a puppy in the resting hall near the Ambala tower. The water-carriers who worked nearby fed him daily, and over time he grew into a strong, healthy dog.

One day, a villager saw the dog and liked him. He offered the water-carriers a warm upper garment and a rupee in exchange. They agreed, and the man took the dog away, tying him with a chain.

The dog didn’t resist. He followed the man quietly and ate whatever food was given. The man thought, “This dog must really like me,” and decided to let him off the chain.

But as soon as the dog was free, he ran away—straight back to the resting hall where he had grown up.

The monks saw him return and guessed what had happened. That evening, in the Hall of Truth, they talked about it: “Look! The dog is back! He must be clever to escape the chain. As soon as he was free, he came home!”

The Buddha entered and asked what they were discussing. They told him the story. He said, “This is not the first time that dog escaped a chain. He did the same long ago.” And then he told this tale from the past.

Long ago, when Brahmadatta was king of Benares, the Bodhisatta was born into a wealthy family in the land of Kasi. When he grew up, he built a home of his own.

In Benares, there was a man who had a dog that had been fed well on rice and had grown fat. One day, a villager saw the dog and offered the owner a fine garment and a coin. The man accepted, and the villager took the dog away, tying him with a strap.

When they reached the edge of a forest, the villager stopped at a hut, tied the dog up, and went to sleep.

At that moment, the Bodhisatta happened to pass by. He saw the dog tied up and spoke kindly:

“Foolish dog, why don’t you bite Through the strap that holds you tight? You’d be free in just a while, Running off with joyful smile!”

The dog replied:

“I am patient, calm, and wise— I wait for the right time to rise. I’ll watch and wait until they sleep, Then I’ll escape without a peep.”

And just as he said, when everyone was asleep, the dog quietly chewed through the strap and ran back to his old home, full of joy.

When the Buddha finished the story, he said: “The dog in both stories is the same. And I was the wise man who spoke to him.”

.... o ....

J243. Guttila Jātaka -- Nhạc sĩ Guttila và đệ tử vô ơn Musila.

Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa học hỏi mọi điều từ Đức Phật nhưng cuối cùng lại chối bỏ Ngài. Đức Phật kể lại câu chuyện về một nhạc sĩ dạy học trò của mình, nhưng người học trò này lại thách thức thầy trước mặt mọi người. Khi Vua Trời Sakka thấy điều này, Sakka đã giúp vị thầy chiến thắng cuộc thi và sau đó đưa vị thầy lên cõi trời.

.

Đây là câu chuyện Đức Phật kể về nhân vật Đề Bà Đạt Đa.

Một hôm, có vài nhà sư đang nói chuyện với Đề Bà Đạt Đa. Họ nói: "Đề Bà Đạt Đa, Đức Phật Tối Thượng là thầy của ông! Ông đã học tất cả mọi thứ từ Ngài - tất cả những giáo lý thiêng liêng và thiền định đặc biệt. Ông không nên là kẻ thù của Ngài!"

Đề Bà Đạt Đa phản bác: "Tỳ kheo Gotama là thầy của tôi sao? Không đời nào! Tôi đã tự học những giáo lý và thiền định đó!" Ông hoàn toàn từ chối thừa nhận Đức Phật là thầy của mình.

Các nhà sư sau đó bàn luận về chuyện này, nói rằng thật kinh khủng khi Đề Bà Đạt Đa lại vô ơn và đối xử tệ bạc với Đức Phật như vậy.

Đức Phật đến và hỏi họ đang nói về chuyện gì. Khi họ kể lại, Ngài nói: "Chuyện này không có gì mới. Đề Bà Đạt Đa đã từng vô ơn và là kẻ thù của ta trước đây, và điều đó luôn dẫn đến một kết cục tồi tệ."

Sau đó, Đức Phật kể cho họ nghe câu chuyện về một kiếp trước.

Ngày xửa ngày xưa, khi vua xứ Benares là Brahmadatta, một nhạc sĩ vĩ đại đã ra đời. Ngài tên là Guttila (ngài là Bồ-tát, hay Đức Phật tương lai). Guttila trở thành nhạc sĩ vĩ đại nhất Ấn Độ. Ngài không bao giờ kết hôn và chăm sóc cha mẹ già yếu, mù lòa.

Một ngày nọ, một số thương gia từ Benares đi du ngoạn đến một thành phố tên là Ujjeni. Họ muốn thuê một nhạc sĩ cho một buổi lễ. Họ đã thuê nhạc sĩ giỏi nhất thành phố đó, một người đàn ông tên là Musila.

Musila chơi đàn luýt (lute: kiểu đàn guitar cổ) theo cách hay nhất của mình, nhưng các thương gia có vẻ không vui. Họ đã nghe Guttila chơi, và âm nhạc của Musila nghe thật khủng khiếp đối với họ - giống như "tiếng cào trên thảm". Musila đã thử chơi nhẹ nhàng hơn, rồi thử chơi với tất cả các dây đàn bị lỏng, nhưng vẫn không ai hài lòng.

"Các thương gia," Musila hỏi, "tại sao các ông không thích nhạc của tôi?"

Họ trả lời: "Anh đang chơi đàn à? Chúng tôi cứ tưởng anh chỉ đang lên dây đàn! Chúng tôi đã nghe nhạc sĩ Guttila ở Benares. Tiếng đàn của anh nghe như tiếng phụ nữ hát ru con vậy."

Musila rất khiêm tốn. Anh trả lại tiền cho họ và cầu xin: "Làm ơn, hãy đưa tôi đi cùng khi các anh trở về Benares."

Các thương gia đồng ý và đưa anh đi. Họ chỉ vào nhà Guttila rồi bỏ đi.

Musila bước vào nhà Guttila. Anh nhìn thấy cây đàn luýt tuyệt đẹp và bắt đầu chơi. Cha mẹ mù lòa của Guttila nghe thấy tiếng đàn và hét lên: "Chuột đang gặm cây đàn luýt! Xuỵt, lũ chuột!"

Musila nhanh chóng đặt cây đàn luýt xuống và chào hai vợ chồng già. Anh giải thích rằng mình đã đi từ Ujjeni đến để xin trở thành học trò của Guttila. Cha mẹ anh chào đón anh.

Khi Guttila trở về, Musila nói cho anh biết lý do anh đến đây. Guttila rất giỏi nhìn thấu tính cách của một người, và anh có thể nhận ra Musila không phải là người tốt. Anh từ chối. "Đi đi, con trai ơi, môn nghệ thuật này không dành cho con."

Musila nài nỉ cha mẹ Guttila giúp đỡ. Họ nài nỉ Guttila hết lần này đến lần khác cho đến khi ông cuối cùng cũng chịu nhượng bộ và đồng ý dạy cậu.

Guttila không giấu giếm gì cả và dạy Musila tất cả những gì mình biết. Khi các bài học kết thúc, Musila nghĩ: "Mình biết hết mọi thứ thầy mình biết. Thầy đã già, còn mình thì trẻ. Mình nên ở lại Benares này và thay thế thầy."

Musila nói với Guttila: "Thưa ngài, con muốn chơi đàn cho nhà vua."

Guttila rất vui lòng giúp đỡ. Anh đến gặp nhà vua và nói: "Học trò của con muốn phục vụ ngài. Xin ngài quyết định xem ngài sẽ trả cho cậu ấy bao nhiêu."

Nhà vua nói: "Lương của cậu ấy sẽ bằng một nửa lương của ngài."

Khi Guttila nói với Musila điều này, cậu học trò lập tức phàn nàn. "Nếu con không được trả lương như thầy, con sẽ không chơi! Chẳng phải con biết hết mọi thứ thầy biết sao?"

"Vâng, thưa bạn, bạn đã biết hết," Guttila đáp.

Guttila thuật lại cho nhà vua nghe chuyện đã xảy ra. Nhà vua nói: "Nếu anh ta chơi đàn hay như ngươi, anh ta sẽ được trả công như vậy. Hãy bảo anh ta thách đấu ngươi để chứng minh điều đó."

Musila vui vẻ đồng ý. Một thông điệp được truyền đi khắp thành phố: trong bảy ngày nữa, bậc thầy vĩ đại Guttila và học trò Musila sẽ thi đấu để thể hiện tài năng của mình!

Guttila lo lắng thầm: "Musila còn trẻ và khỏe mạnh, nhưng ta đã già và mệt mỏi. Nếu ta thắng, sẽ chẳng ai ấn tượng. Nhưng nếu anh ta thắng, ta sẽ xấu hổ lắm, thà chết trong rừng còn hơn!"

Ông trở nên sợ hãi cuộc thi. Suốt sáu ngày, ông đi đi lại lại trong rừng, sợ thất bại rồi chết ngay, đi trên đường cỏ.

Bấy giờ, trên thiên đàng, ngai vàng của Sakka (Vua của các vị thần) trở nên ấm áp. Sakka nhận ra Guttila đang đau khổ vì học trò của mình. Ông vội vã chạy vào rừng và đứng trước mặt người nhạc sĩ.

"Bạch Thế Tôn," Sakka hỏi, "sao ngài lại ở đây?"

Guttila giải thích: "Hỡi Vua của các vị thần, tôi sợ học trò của tôi sẽ đánh bại tôi!"

Sakka an ủi: "Đừng sợ! Ta sẽ bảo vệ ngươi. Một người thầy luôn đáng được tôn vinh. Ngươi chắc chắn sẽ chứng tỏ mình là một nhạc sĩ tài giỏi hơn."

Sau đó, Sakka dặn dò Guttila: "Khi chơi đàn, trước tiên hãy bứt đứt một dây đàn của ngươi. Âm thanh vẫn sẽ hay như trước. Khi Musila bứt đứt một dây, dây đàn của hắn sẽ im lặng. Hắn sẽ thua. Sau đó, ngươi sẽ bứt đứt dây thứ hai, rồi dây thứ ba, cho đến dây thứ bảy. Ngươi sẽ chơi trên thân gỗ của cây đàn, nhưng âm nhạc sẽ tuôn ra từ những dây đàn bị đứt và tràn ngập khắp thành phố!"

Sakka đưa cho Guttila ba viên xúc xắc ma thuật. "Sau khi âm nhạc vang vọng khắp thành phố, hãy tung một viên xúc xắc lên trời. Ba trăm thiên nữ sẽ giáng trần và nhảy múa. Tung viên xúc xắc thứ hai, ba trăm người nữa sẽ nhảy múa. Tung viên xúc xắc thứ ba, ba trăm người nữa sẽ nhảy múa trong đấu trường. Ta cũng sẽ ở đó! Hãy đi, đừng sợ!"

Sáng hôm sau, Guttila trở về thành phố. Một sân khấu lộng lẫy đã được dựng lên cho nhà vua. Thành phố chật kín người. Guttila ngồi vào chỗ của mình với cây đàn luýt. Musila ngồi đối diện. Sakka và đội quân thiên thần của ngài cũng ở đó, không ai nhìn thấy ngoại trừ Guttila.

Đầu tiên, cả hai cùng chơi một bài hát, và đám đông vô cùng phấn khích.

Sakka thì thầm bảo Guttila bứt đứt một dây đàn. Guttila bứt đứt dây đàn đầu tiên, và âm nhạc tuôn trào, nghe như âm nhạc thần thánh. Musila bứt đứt một dây đàn, nhưng cây đàn luýt của hắn im bặt. Hắn đã bị đánh bại!

Nhưng Guttila vẫn chưa dừng lại. Ông bứt đứt dây đàn thứ hai, rồi dây đàn thứ ba, cho đến khi cả bảy dây đàn đều đứt. Ngài gảy chiếc đàn luýt rỗng ruột, và âm thanh vang vọng khắp thành phố. Đám đông reo hò cuồng nhiệt, phất phới áo quần.

Sau đó, Guttila tung viên xúc xắc ma thuật đầu tiên lên không trung, và ba trăm vũ công thiên thần xuất hiện! Ngài tung viên xúc xắc thứ hai và thứ ba, và chín trăm thiên nữ đã nhảy múa như Sakka đã hứa.

Nhà vua ra hiệu cho dân chúng. Đám đông khổng lồ quay sang Musila. "Ngươi thật ngu ngốc khi thách thức sư phụ của mình!" họ hét lên. Họ lấy gậy gộc và đá đánh Musila đến chết, rồi lôi xác ông vào đống rác.

Nhà vua và dân chúng ban tặng Guttila rất nhiều lễ vật. Sakka chúc mừng ông và hứa sẽ gửi xe ngựa của mình đến thăm Guttila.

Sakka đưa Guttila lên thiên đường, nơi các thiên nữ cầu xin ông chơi đàn. Guttila đồng ý, nhưng với điều kiện họ phải nói cho ngài biết những việc thiện họ đã làm trong kiếp trước để được lên thiên đường.

Trong bảy ngày, Guttila đã chơi thứ âm nhạc tuyệt vời hơn bất cứ thứ gì trên thiên đường. Vào ngày thứ bảy, các thiên nữ kể lại câu chuyện của họ.

Một người đã tặng một chiếc áo choàng đơn giản cho một nhà sư. Một người khác đã tặng hoa. Một người khác đã cúng dường một bữa ăn nhỏ. Một người khác chỉ đơn giản là làm tròn bổn phận của mình với gia đình chồng mà không bao giờ nổi nóng. Guttila học được rằng ngay cả những hành động tốt đẹp dù rất nhỏ cũng có thể dẫn đến những phần thưởng lớn lao.

Guttila vô cùng vui mừng. Ngài nhận ra ngay cả một đức hạnh nhỏ bé cũng có thể mạnh mẽ đến nhường nào. Ngài nghĩ: "Thật tốt khi ta đến đây và nghe điều này! Khi ta trở về thế giới loài người, ta sẽ làm đủ mọi việc thiện và ban tặng thật nhiều quà."

Sau bảy ngày, Sakka cho Guttila trở về nhà. Guttila kể cho mọi người nghe những gì ngài đã thấy trên thiên đàng, và kể từ ngày đó, người dân Benares được truyền cảm hứng để làm việc thiện với tất cả sức mạnh của mình.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài đã chỉ ra những người trong đó: "Vào thời đó, Devadatta là Musila (người học trò vô ơn), Sakka (Vua của các vị cõi trời) là Anuruddha, nhà vua là Ananda, và Ta là Guttila, người nhạc sĩ."

.... o ....

J243. Guttila Jātaka -- Guttila the Musician and his ungrateful student Musila.

Summary: Devadatta learned everything he knew from the Buddha but ultimately repudiated him. The Buddha recounts a story about a musician who taught his pupil, only for the pupil to challenge him publicly. When Sakka discovered this, he assisted the master in winning the contest and then took him to heaven.

.

This is a story the Buddha told about a man named Devadatta.

One day, some monks were talking to Devadatta. They said, "Devadatta, the Supreme Buddha is your teacher! You learned everything from him—all the holy teachings and special meditations. You shouldn't be his enemy!"

Devadatta snapped back, "The monk Gotama is my teacher? No way! I learned those teachings and meditations all by myself!" He completely refused to acknowledge the Buddha as his master.

The monks discussed this later, saying how terrible it was that Devadatta was so ungrateful and was treating the Buddha so badly.

The Buddha arrived and asked what they were talking about. When they told him, he said, "This isn't new. Devadatta has been ungrateful and my enemy before, and it always leads to a terrible end."

Then, the Buddha told them this story about a past life.

A long, long time ago, when the King of Benares was named Brahmadatta, a great musician was born. His name was Guttila (the Bodhisatta, or the future Buddha). Guttila became the greatest musician in all of India. He never married and took care of his elderly, blind parents.

One day, some merchants from Benares were on a trip in a city called Ujjeni. They wanted to hire a musician for a celebration. They hired the top musician in that city, a man named Musila.

Musila played his lute in his best way, but the merchants didn't look happy. They had heard Guttila play, and Musila's music sounded terrible to them—like "scratching on a mat." Musila tried playing softer, then tried playing with all the strings loose, but still, no one was pleased.

"Merchants," Musila asked, "why don't you like my music?"

They replied, "Are you playing? We thought you were just tuning up! We've heard Guttila the Musician in Benares. Your music sounds like women singing lullabies to babies."

Musila was very humbled. He gave their money back and begged, "Please, take me with you when you go back to Benares."

The merchants agreed and took him. They pointed out Guttila's house and left.

Musila entered Guttila's home. He saw the beautiful lute and started to play. Guttila's blind parents heard the music and called out, "The mice are chewing on the lute! Shoo, rats!"

Musila quickly put the lute down and greeted the old couple. He explained he had traveled from Ujjeni to become Guttila's student. The parents welcomed him.

When Guttila returned, Musila told him why he was there. Guttila was good at reading a person's character, and he could tell Musila was not a good man. He refused. "Go, my son, this art is not for you."

Musila begged Guttila’s parents to help him. They asked Guttila again and again until he finally gave in and agreed to teach him.

Guttila held nothing back and taught Musila everything he knew. When the lessons were finished, Musila thought, "I know everything my teacher knows. He is old, and I am young. I should stay here in Benares and take his place."

Musila told Guttila, "Sir, I want to play for the King."

Guttila was happy to help. He went to the King and said, "My pupil wants to serve you. Please decide how much you will pay him."

The King said, "His pay will be half of yours."

When Guttila told Musila this, the student immediately complained. "If I don't get the same pay as you, I won't play! Don't I know everything you know?"

"Yes, you do," Guttila replied.

Guttila told the King what had happened. The King then said, "If he can play as well as you, he will be paid the same. Tell him to challenge you to a competition to prove it."

Musila gladly agreed. A message was sent throughout the city: in seven days, the great teacher Guttila and his student Musila would compete to show their skill!

Guttila worried to himself, "Musila is young and strong, but I am old and tired. If I win, no one will be very impressed. But if he wins, I will be so ashamed, I'd rather die in the woods!"

He became terrified of the competition. For six days, he walked back and forth in the forest, fearing failure one moment and death the next, wearing a path in the grass.

Now, in the heavens, the throne of Sakka (the King of the Gods) became warm. Sakka realized Guttila was in distress because of his student. He rushed to the forest and stood before the musician.

"Master," Sakka asked, "why are you here?"

Guttila explained, "O King of the Gods, I am afraid my pupil will beat me!"

Sakka comforted him, "Do not fear! I will protect you. A teacher should always be honored. You will surely prove to be the better musician."

Sakka then gave Guttila special instructions: "When you play, first break one of the strings on your lute. It will still sound as beautiful as before. When Musila breaks a string, his will be silent. He will lose. Then, you will break the second string, and the third, all the way to the seventh. You will play on the wooden body of the lute, but the music will pour from the broken strings and fill the whole city!"

Sakka gave Guttila three magic dice. "After the music fills the city, throw one die into the air. Three hundred heavenly maidens will come down and dance. Throw the second, and three hundred more will dance. Throw the third, and three hundred more will dance in the stadium. I will be there too! Go, and do not be afraid!"

The next morning, Guttila returned to the city. A grand stage had been set up for the King. The city was packed with people. Guttila sat in his place with his lute. Musila sat opposite him. Sakka and his heavenly army were there too, invisible to everyone except Guttila.

First, they both played the same song, and the crowd was thrilled by both.

Sakka whispered to Guttila to break a string. Guttila snapped the first string, and the music poured out, sounding like divine music. Musila broke a string, but his lute went silent. He was defeated!

But Guttila wasn't done. He broke the second string, and the third, until all seven were snapped. He played the empty body of the lute, and the sound filled the entire city. The crowds cheered wildly, waving their clothes in applause.

Then, Guttila threw the first magic die into the air, and three hundred heavenly dancers appeared! He threw the second and the third, and nine hundred divine nymphs were dancing as Sakka had promised.

The King signaled to the people. The massive crowd turned on Musila. "You were foolish to challenge your teacher!" they shouted. They grabbed sticks and stones and beat Musila to death, then dragged his body to a trash pile.

The King and the citizens gave Guttila many gifts. Sakka congratulated him and promised to send his chariot to take Guttila up to heaven for a visit.

Sakka took Guttila to the heavens, where the divine maidens begged him to play. Guttila agreed, but only if they would tell him what good deeds they did in their previous human lives to earn their place in heaven.

For seven days, Guttila played music that was more beautiful than anything in heaven. On the seventh day, the heavenly maidens told their stories.

One had given a simple upper cloak to a monk. Another had given flowers. Another had given a small meal. Another had simply done her duty to her in-laws without ever losing her temper. Guttila learned that even very small acts of goodness could lead to great rewards.

Guttila was overjoyed. He realized how powerful even a little virtue could be. He thought, "It was very good for me to come here and hear this! When I return to the world of men, I will do all kinds of good deeds and give many gifts."

After seven days, Sakka sent Guttila back home. Guttila told everyone what he had seen in heaven, and from that day on, the people of Benares were inspired to do good deeds with all their might.

When the Buddha finished the story, he identified the people in it: "In those days, Devadatta was Musila (the ungrateful student), Sakka (the King of the Gods) was Anuruddha, the King was Ananda, and I was Guttila the Musician."

.... o ....

J244. Viticcha Jātaka -- Nhà tu khổ hạnh thông thái

Tóm tắt: Một nhà tranh luận lang thang tự cho mình là thông minh nhất Ấn Độ đến gặp Đức Phật để thách đấu. Sau một cuộc tranh luận thất bại, trong đó câu trả lời ngắn gọn của Đức Phật đã đánh bại anh ta, nhà tranh luận bỏ đi trong sự bẽ bàng. Đức Phật sau đó nhớ lại một kiếp trước của chính nhà tranh luận đó. Trong kiếp đó, Bồ Tát đã làm cho nhà tranh luận im lặng bằng một câu hỏi đơn giản về sông Hằng. Đức Phật kết luận rằng trí tuệ thực sự nằm ở việc không ham muốn điều gì, trái ngược với những ham muốn và bất mãn vô độ của nhà tranh luận.

.

Câu chuyện này được Đức Phật kể tại Kỳ Viên, về một nhà tranh biện lang thang khắp đất nước tìm kiếm người để tranh luận.

Người đàn ông này, một triết gia du hành, tự cho mình là người thông minh nhất Ấn Độ. Ông ta không thể tìm thấy ai có thể tranh luận với mình.

Cuối cùng, ông ta đến thành Savatthi và hỏi: "Ở đây có ai có thể tranh luận với tôi không?"

Mọi người trả lời: "Đức Phật có thể."

Vì vậy, nhà triết học du hành đã đến Kỳ Viên, nơi Đức Phật đang thuyết giảng cho một đám đông. Nhà triết học hỏi Đức Phật một câu hỏi. Đức Phật trả lời rõ ràng, và sau đó, Đức Phật hỏi lại một câu hỏi.

Nhà triết học không thể trả lời được. Ông ta bỏ cuộc, quay lưng bỏ đi.

Đám đông tín đồ thì thầm: "Chỉ một lời của Đức Phật đã hoàn toàn đánh bại nhà du hành!"

Đức Phật nói: "Vâng, các tỳ kheo. Cũng như hôm nay ta đã đánh bại hắn chỉ bằng một lời, thì từ lâu ta cũng đã đánh bại hắn chỉ bằng một lời."

Sau đó, Đức Phật kể câu chuyện về quá khứ này.

Ngày xưa, khi Brahmadatta còn là vua xứ Benares, Bồ Tát (Đức Phật tương lai) đã giáng sinh thành một bậc tu sĩ. Ngài rời bỏ gia đình để sống một cuộc đời giản dị, tu hành và lưu lại một thời gian dài trên dãy núi Himalaya.

Sau đó, Ngài xuống núi và sống trong một túp lều tranh nhỏ bên bờ sông Hằng, gần một thị trấn lớn.

Lúc bấy giờ, có một nhà hùng biện du hành—chính là người đàn ông đó—đến thị trấn đó. Ông ta cũng đang tìm người để tranh luận. Dân làng kể cho ông ta nghe về một bậc tu sĩ thông thái sống bên bờ sông.

Nhà hùng biện, cùng với một đám đông lớn, đến túp lều của Bồ Tát, chào Ngài và ngồi xuống.

Bồ Tát mời Ngài uống nước và nói: "Ngài có muốn uống nước sông Hằng, pha với hương thơm tươi mát của rừng hoang không?"

Người hành hương cố gắng nắm bắt lời ông ta. “Sông Hằng là gì? Sông Hằng có thể là cát, sông Hằng có thể là nước, sông Hằng có thể là bờ bên này, sông Hằng có thể là bờ bên kia!”

Bồ Tát nói với người hành hương: “Ngoài cát, nước, bờ bên này, bờ bên kia, ông còn có thể có sông Hằng nào khác nữa?”

Người tranh luận sửng sốt. Ông không biết trả lời sao cho câu trả lời đơn giản và hoàn hảo như vậy. Ông đứng dậy và bỏ đi ngay lập tức.

Sau khi người tranh luận đi khỏi, Bồ Tát nói với đám đông những lời này:

"Người ta chối bỏ những gì mình thấy, và khao khát những gì mình không có.

Người ta có thể lang thang rất lâu, nhưng vẫn không tìm thấy điều mình thực sự muốn.

Người ta ghét bỏ những gì mình đã có; một khi đã là của mình, người ta không còn muốn nó nữa.

Người ta luôn muốn tất cả.

Nhưng chúng ta nên khen ngợi người không ham muốn gì cả."

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nhận diện những người đó: "Vị triết gia du hành đã bỏ đi chính là cùng một người, kẻ lang thang, cả hai lần. Còn ta chính là vị tu sĩ thông thái, nhà khổ hạnh, bên bờ sông."

.... o ....

J244. Viticcha Jātaka -- The Wise Ascetic

Summary: A wandering debater who considers himself the smartest man in India approaches the Buddha for a challenge. After a failed exchange in which the Buddha’s single-word response defeats him, the debater leaves humiliated. The Buddha then recalls a past life involving the same debater. In that life, the Bodhisatta silences the debater with a simple question about the Ganges. The Buddha concludes that true wisdom lies in desiring nothing, contrasting this with the debater’s insatiable cravings and discontent.

.

This story was told by the Buddha at a place called Jetavana, about a wandering debater who traveled the country looking for someone to argue with.

This man, a traveling philosopher, thought he was the smartest person in all of India. He couldn't find anyone who could beat him in an argument.

Finally, he came to the town of Savatthi and asked, "Is there anyone here who can debate me?"

People told him, "The Supreme Buddha can."

So, the traveling philosopher went to Jetavana, where the Buddha was teaching a large crowd. The philosopher asked the Buddha a question. The Buddha answered it clearly, and then, the Buddha asked a question in return.

The philosopher couldn't answer it. He gave up, turned tail, and walked away.

The crowd of followers whispered, "One single word from the Master completely defeated the traveler!"

The Buddha said, "Yes, monks. Just as I beat him with one word today, I defeated him with one word a long time ago, too."

Then, the Buddha told this story about the past.

Once upon a time, when Brahmadatta was King of Benares, the Bodhisatta (the future Buddha) was born as a holy man. He left his home to live a simple, religious life and stayed for a long time in the Himalayan mountains.

He later came down and lived in a small leaf hut beside the Ganges River, near a large town.

At that time, a traveling debater—the very same man—came to that town. He was also looking for someone to argue with. The townspeople told him about the wise holy man living by the river.

The debater, followed by a large crowd, went to the Bodhisatta’s hut, greeted him, and sat down.

The Bodhisatta offered him a drink, saying, "Would you like some water from the Ganges, mixed with the fresh scent of the wild woods?"

The pilgrim tried to catch him in his words. “What is the Ganges? The Ganges may be sand, the Ganges may be water, the Ganges may be the near bank, the Ganges may be the far bank!”

The Bodhisatta said to the pilgrim, “Besides the sand, the water, the near bank, and the far bank, what other Ganges can you have?”

The debater was stunned. He had no answer for such a simple, perfect reply. He got up and left right away.

After the debater was gone, the Bodhisatta spoke these words to the crowd:

"The man rejects what he sees, and desires what he hasn't got.

He may wander for a long time, but he still won't find what he really wants.

He dislikes what he has gained; once it's his, he doesn't want it anymore.

He always wants everything.

But we should praise the person who wants nothing at all."

When the Buddha finished his story, he identified the people: "The traveling philosopher who walked away is the same man, the vagrant, both times. And I myself was the wise holy man, the ascetic, by the river."

.... o ....

J245. Mula-Pariyaya Jātaka -- Người Thầy và Những Học Trò Kiêu Ngạo

Tóm tắt: Một số Bà La Môn học hỏi từ Đức Phật và tin rằng họ hiểu tất cả những gì Ngài dạy. Tuy nhiên, khi Ngài trình bày một bài pháp đặc biệt sâu sắc, họ lại không hiểu được. Đức Phật kể lại một câu chuyện trong quá khứ, khi Ngài gặp phải sự khinh miệt tương tự và đã hỏi các đệ tử những câu hỏi mà họ không thể trả lời.

.

Đây là câu chuyện Đức Phật kể khi Ngài đang ở gần thị trấn Ukkattha. Câu chuyện giải thích một bài học gọi là "Sự Kế Thừa Nhân Quả".

Lúc bấy giờ, năm trăm vị Bà La Môn đã xuất gia và học tất cả giáo lý của Đức Phật. Họ học tất cả những gì Đức Phật đã dạy - Ba Tạng Kinh (Pitaka).

Họ trở nên rất kiêu ngạo. Họ nghĩ: "Đức Phật Tối Cao biết Ba Tạng Kinh, và chúng ta cũng vậy. Sự khác biệt giữa chúng ta là gì?"

Vì lòng kiêu ngạo này, họ không còn tỏ lòng tôn kính Đức Phật và không còn tham dự những buổi thuyết pháp của Ngài. Họ hành động như thể họ cũng quan trọng như Ngài.

Một ngày nọ, khi những người này đang ngồi trước Đức Phật, Ngài bắt đầu thuyết giảng về một chủ đề rất sâu sắc: Sự Kế Thừa Nhân Quả (mọi thứ trong cuộc sống đều phụ thuộc vào một chuỗi sự kiện). Ngài giải thích điều đó một cách tuyệt vời, thêm vào tám cấp độ hiểu biết khó khăn.

Năm trăm người không hiểu một từ nào.

Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu họ: "Chúng ta cứ tưởng mình thông minh lắm, nhưng hóa ra chẳng hiểu gì cả. Chư Phật quả là bậc trí tuệ nhất! Trí tuệ của các Ngài thật phi thường!"

Lòng kiêu hãnh của họ tan biến. Họ trở nên trầm lặng và vô hại như những con rắn đã mất nanh. Họ hoàn toàn khiêm nhường.

Sau đó, Đức Phật du hành đến một thành phố khác, Vesali, và thuyết một bài pháp đặc biệt, hùng hồn. Khi năm trăm vị tăng nghe được, cả thế giới rung chuyển, và tất cả đều trở thành những bậc thánh giác ngộ.

Trở lại chánh điện, các vị tăng khác đang bàn tán về những gì đã xảy ra. "Năng lực của Đức Phật thật phi thường! Ngài đã dùng bài học về Nhân Duyên để làm cho năm trăm vị tăng kiêu ngạo kia khiêm nhường!"

Đức Phật bước vào, hỏi họ đang bàn luận điều gì, và họ đã kể lại.

Ngài nói: "Này các Tỳ kheo, đây không phải lần đầu tiên ta làm cho những kẻ kiêu ngạo này khiêm nhường. Ta đã làm điều tương tự như vậy từ lâu rồi."

Sau đó, Ngài kể câu chuyện này.

Ngày xưa, khi Brahmadatta còn là vua xứ Benares, Bồ Tát sinh ra là một vị thầy Bà La Môn. Ngài thông thạo kinh điển và trở thành một vị thầy nổi tiếng, dạy dỗ năm trăm đệ tử.

Năm trăm đệ tử đã nỗ lực học tập và hoàn thiện kiến ​​thức. Cũng giống như trong câu chuyện này, họ trở nên kiêu ngạo và tự nhủ: "Chúng ta hiểu biết ngang bằng thầy. Chẳng có gì khác biệt giữa chúng ta cả."

Vì quá kiêu ngạo và bướng bỉnh, họ đã không còn tôn kính thầy mình hay làm tròn bổn phận hàng ngày cho thầy nữa.

Một ngày nọ, họ thấy thầy mình ngồi dưới gốc cây táo tàu. Để chế giễu thầy, họ gõ nhẹ vào cây và nói: "Cây gì mà vô dụng thế!"

Bồ Tát biết họ đang chế giễu mình. Ngài nói: "Các đệ tử, ta có một câu hỏi cho các con."

Họ vô cùng phấn khích. "Cứ hỏi đi!" họ khoe khoang. "Chúng con sẽ trả lời!"

Vị thầy đặt câu hỏi dưới dạng một câu đố:

"Thời gian ăn mòn vạn vật, kể cả thời gian.

Vậy, ai là kẻ ăn mòn vạn vật?"

Các chàng trai lắng nghe câu đố khó nhằn, nhưng không ai trả lời được.

Bồ Tát nói với họ: "Đừng nghĩ rằng câu hỏi này nằm trong ba bộ kinh điển mà các ngươi đã thông thạo! Các ngươi nghĩ rằng mình biết tất cả những gì ta biết, nhưng các ngươi đã nhầm. Ta biết nhiều điều mà các ngươi vẫn chưa biết."

"Đi đi," ngài ra lệnh. "Ta cho các ngươi bảy ngày. Hãy suy nghĩ về câu hỏi này trong chừng ấy thời gian."

Các học trò ra về. Suốt một tuần, họ loay hoay với câu đố, nhưng vẫn không tìm ra lời giải.

Đến ngày thứ bảy, họ trở về, chào thầy và ngồi xuống.

"Vậy," vị thầy hỏi, "các con đã giải được câu đố chưa?"

"Thưa thầy, chúng con đã thất bại," họ thừa nhận.

Bồ Tát lại kể một câu đố khác để nhẹ nhàng khiển trách họ:

"Đầu mọc trên cổ, tóc mọc trên đầu.

Ta muốn biết: Có bao nhiêu đầu có tai?"

"Các ngươi thật ngu ngốc," Ngài nói tiếp, "các ngươi có tai thủng, nhưng không có trí tuệ!"

Sau đó, Ngài giải thích câu đố đầu tiên. Các đệ tử lắng nghe chăm chú. Họ nghĩ, "Sư phụ của chúng ta thật vĩ đại!" Họ cầu xin Ngài tha thứ, từ bỏ lòng kiêu hãnh và từ đó trung thành phụng sự Ngài.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nhận diện những người này: "Lúc bấy giờ, những vị tỳ kheo này (những người đã trở nên kiêu ngạo) chính là năm trăm đệ tử. Và chính Ta là thầy của họ."

.... o ....

J245. Mula-Pariyaya Jātaka -- The Teacher and the Proud Students

Summary: Some Brahmins learn from the Buddha and believe they understand everything he teaches. However, when he presents a particularly profound discourse, they fail to grasp it. The Buddha recounts a story from the past when he faced a similar slight and asked his pupils questions they could not answer.

.

This is a story the Buddha told while he was staying near the town of Ukkattha. It explains a lesson called the "Succession of Causes."

At that time, five hundred brahmins had become monks and learned all the Buddha's teachings. They learned everything the Buddha had taught—the Three Holy Books (Pitakas).

They became very proud. They thought, "The Supreme Buddha knows the Three Books, and so do we. What's the difference between us?"

Because of this pride, they stopped showing respect to the Buddha and stopped attending his talks. They acted as if they were just as important as him.

One day, when these men were sitting before the Buddha, he began to speak on a very deep topic: the Succession of Causes (how all things in life depend on a chain of events). He explained it beautifully, adding eight difficult levels of understanding.

The five hundred men didn't understand a single word.

A sudden thought hit them: "We thought we were so smart, but we don't understand any of this. The Buddhas are truly the wisest beings! Their knowledge is incredible!"

Their pride vanished. They became as quiet and harmless as snakes that have lost their fangs. They were completely humbled.

Later, the Buddha traveled to another city, Vesali, and gave a powerful, special talk. When those five hundred monks heard it, the entire world shook, and they all became enlightened saints.

Back in the main hall, the other monks were talking about what happened. "The Buddha's power is amazing! He used the lesson on the Succession of Causes to humble those five hundred proud monks!"

The Buddha came in, asked what they were discussing, and they told him.

He said, "Monks, this is not the first time I have humbled these same men when they were too proud. I did the exact same thing long ago."

Then, he told this story.

Once upon a time, when Brahmadatta was King of Benares, the Bodhisatta was born as a brahmin teacher. He mastered the holy scriptures and became a famous teacher, instructing five hundred pupils.

The five hundred pupils worked hard and perfected their learning. Just like in the present story, they became arrogant and said to themselves, "We know as much as our teacher. There's no difference between us."

Because they were so proud and stubborn, they stopped paying respect to their teacher or doing their daily duties for him.

One day, they saw their teacher sitting under a jujube tree. To mock him, they tapped the tree with their fingers, saying, "What a worthless tree!"

The Bodhisatta knew they were making fun of him. He said, "My students, I have a question for you."

They were thrilled. "Ask away!" they boasted. "We will answer it!"

The teacher asked his question in the form of a riddle:

"Time eats all things, even time itself.

So, who is it that eats the consumer of all?"

The young men listened to the difficult riddle, but not one of them could answer it.

The Bodhisatta told them, "Do not think this question is found in the three holy books you mastered! You believe you know everything I know, but you are wrong. I know much that is still unknown to you."

"Go now," he commanded. "I give you seven days. Think about this question for that long."

The pupils left and went home. For a full week, they puzzled over the riddle, but they couldn't figure it out.

On the seventh day, they returned, greeted their teacher, and sat down.

"Well," the teacher asked, "did you solve the question?"

"No, Teacher, we failed," they admitted.

The Bodhisatta then spoke another riddle to scold them gently:

"Heads grow on necks, and hair grows on heads.

I want to know: how many heads have ears?"

"You are fools," he continued, "you have ears with holes in them, but no wisdom!"

Then, he explained the answer to the first riddle. The students listened carefully. They thought, "Our Teacher truly is great!" They begged for his forgiveness, gave up their pride, and served him faithfully from then on.

When the Buddha finished the story, he identified the people: "At that time, these monks (the ones who had become proud) were the five hundred pupils. And I myself was their teacher."

.... o ....

J246. Telovada Jātaka -- Lời Phật Dạy về Thực Phẩm Thanh Tịnh

Tóm tắt: Nhà khổ hạnh Nāthaputta cáo buộc Đức Phật ăn thịt. Đáp lại, Đức Phật kể lại một câu chuyện từ một kiếp trước, trong đó Ngài đã từng bị cáo buộc tương tự. Ngài giải thích rằng lỗi không thuộc về người ăn thịt, mà thuộc về người giết con vật.

.

Đây là câu chuyện Đức Phật kể khi Ngài ngự tại nơi ẩn cư gần thành Vesali.

Câu chuyện bắt đầu khi một người đàn ông tên là Sihasenapati (một vị tướng) trở thành đệ tử của Đức Phật. Ông cúng dường thức ăn cho các nhà sư, và một số thức ăn có chứa thịt.

Khi một nhóm nhà sư, được gọi là những nhà sư lõa thể, nghe thấy điều này, họ vô cùng tức giận và khó chịu. Họ cho rằng đây là cơ hội để gây rắc rối cho Đức Phật. Họ đi khắp nơi chế giễu, "Xem kìa! Đạo sĩ Gotama ăn thịt được giết mổ để dành cho mình!"

Các đệ tử của Đức Phật bàn tán về chuyện này trong hội trường. "Các hiền giả," họ nói, "Nhà sư Nathaputta đang chế giễu Đức Phật, nói rằng ông ta cố tình ăn thịt được chế biến đặc biệt cho mình."

Đức Phật nghe thấy họ nói chuyện và trả lời: "Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Nathaputta chế giễu Ta vì đã ăn thịt được chế biến cho Ta. Hắn ta đã làm điều tương tự từ lâu rồi."

Sau đó, Đức Phật kể cho họ nghe câu chuyện từ một kiếp trước.

Ngày xửa ngày xưa, khi Brahmadatta còn là vua xứ Benares, Bồ Tát (Đức Phật tương lai) đã giáng sinh là một bậc tu sĩ. Khi trưởng thành, Ngài rời bỏ gia đình để sống một cuộc đời giản dị, tu hành như một nhà tu khổ hạnh.

Ngài xuống núi để kiếm thức ăn. Ngày hôm sau, Ngài đi bộ qua thành phố, khất thực.

Một người giàu nhìn thấy vị tu sĩ và quyết định muốn làm phiền ngài. Người giàu mời vị tu sĩ vào nhà, mời ngồi và gắp cá cho ngài.

Sau khi vị tu sĩ dùng bữa xong, người giàu ngồi xuống và nói: "Tôi đã giết hại chúng sinh để chuẩn bị bữa ăn này cho ngài. Tội lỗi không phải ở tôi, mà là ở ngài!"

Người giàu sau đó đọc một bài kệ để mắng vị tu sĩ:

"Kẻ ác giết hại, nấu nướng và cho thức ăn.

Nếu vị tu sĩ ăn thịt đó, thì người đó đã bị ô uế bởi tội lỗi."

Bồ Tát lắng nghe lời tranh luận này và đáp lại bằng bài kệ của mình, chỉnh sửa quan điểm của người đàn ông:

"Kẻ ác có thể giết vợ con mình để dâng cúng.

Nhưng nếu bậc tu sĩ ăn của dâng cúng, thì người ấy không phạm tội."

Với những lời chỉ dạy rõ ràng này, Bồ Tát đứng dậy và rời đi.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nhận diện những người trong đó: "Lúc bấy giờ, Nathaputta, vị ẩn sĩ lõa thể, là người giàu có đã chế giễu bậc tu sĩ. Và chính ta là vị ẩn sĩ đó."

.... o ....

J246. Telovada Jātaka -- The Buddha's Teaching on Pure Food

Summary: The ascetic Nāthaputta accuses the Buddha of eating meat. In response, the Buddha recounts a story from a past life in which he faced a similar accusation. He explains that the blame lies not with the one who eats the meat, but with the one who kills the animal.

.

This is a story the Buddha told while staying in his retreat near the city of Vesali.

The story starts because a man named Sihasenapati (a commander) had become a follower of the Buddha. He offered food to the monks, and some of the food contained meat.

When a group of monks called the naked ascetics heard this, they were furious and upset. They saw it as a chance to cause trouble for the Buddha. They went around sneering, "Look! The priest Gotama eats meat that was killed on purpose for him!"

The Buddha's followers discussed this gossip in their meeting hall. "Friend," they said, "Nathaputta the Ascetic is mocking the Master, saying he knowingly eats meat that was specially prepared for him."

The Buddha heard them talking and replied, "Monks, this is not the first time that Nathaputta has mocked me for eating meat that was prepared for me. He did the exact same thing long ago."

Then, the Buddha told them this story from a past life.

A long, long time ago, when Brahmadatta was King of Benares, the Bodhisatta (the future Buddha) was born as a holy man. When he grew up, he left his home to live a simple, religious life as an ascetic.

He came down from the mountains to gather supplies. The next day, he walked through the city, begging for food.

A rich man saw the holy man and decided he wanted to annoy him. The rich man invited the ascetic into his house, offered him a seat, and served him fish.

After the ascetic had finished the meal, the rich man sat down and said, "I killed living creatures to prepare this food specifically for you. The wrong is not on my head, but on yours!"

The rich man then spoke a verse to scold the ascetic:

"The wicked man kills and cooks and gives the food to eat.

If the holy man takes that meat, he is defiled with sin."

The Bodhisatta listened to this argument and replied with his own verse, correcting the man's view:

"The wicked man might even kill his wife or son to offer a gift.

But if the holy man eats the gift, no sin is done by him."

With these words of clear instruction, the Bodhisatta stood up and left.

When the Buddha finished the story, he identified the people in it: "At that time, Nathaputta the Naked Ascetic was the wealthy man who mocked the holy man. And I myself was the ascetic."

.... o ....

J247. Padanjali Jātaka -- Hoàng Tử Chỉ Biết Cười Nhạo

Tóm tắt: Một vị sư bĩu môi trước lời dạy của các vị đại đệ tử, khiến họ bỏ đi. Đức Phật bèn kể một câu chuyện về chính người đó đã bĩu môi trong một kiếp trước; bất kể phán đoán của ông ta đúng hay sai, ông ta vẫn bị coi là kẻ ngu.

.

Câu chuyện này được Đức Phật kể lại khi Ngài đang ở tại tu viện Kỳ Viên, về một vị sư lớn tuổi tên là Laludayi.

Một hôm, hai vị đệ tử quan trọng nhất của Đức Phật đang thảo luận nghiêm túc về một giáo lý. Các vị sư nghe họ nói đều khen ngợi trí tuệ vĩ đại của hai vị.

Trưởng lão Laludayi đang ngồi đó và thấy các vị sư đang khen ngợi họ. Ngài bĩu môi khinh bỉ, nghĩ thầm: "Kiến thức của họ so với ta thì có gì là lạ?" Khi các vị sư khác nhận thấy sự khinh bỉ của ngài, họ để ngài lại một mình, và nhóm người giải tán.

Sau đó, các vị sư đang bàn tán về sự việc. "Này các hiền giả, các hiền giả có thấy Laludayi bĩu môi không? Hắn ta đang chế giễu hai vị đại đệ tử!"

Khi nghe vậy, Đức Phật nói: "Này các hiền giả, điều này chẳng có gì mới mẻ. Trước đây, cũng như bây giờ, Laludayi không có câu trả lời nào khác ngoài việc bĩu môi."

Sau đó, Đức Phật kể lại câu chuyện này từ một kiếp trước.

Câu chuyện về Hoàng tử Padanjali

Ngày xửa ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Benares, Bồ Tát (Đức Phật tương lai) là cố vấn sáng suốt của nhà vua về mọi vấn đề.

Nhà vua có một người con trai tên là Padanjali, rất lười biếng và ngốc nghếch. Sau khi nhà vua băng hà, triều đình họp bàn về việc lập Padanjali làm vua kế vị.

Bồ Tát phản đối kịch liệt. "Hắn ta là một tên ngốc lười biếng, lười biếng," ngài nói. "Chúng ta có nên lập hắn ta làm vua không?"

Các cận thần đồng ý thử thách chàng trai trẻ. Họ cho chàng ngồi xuống để quan sát một phiên tòa giả định. Trong phiên tòa đầu tiên này, các cận thần cố tình đưa ra một quyết định sai lầm - họ đã trao một thứ gì đó nhầm người.

Sau đó, họ hỏi hoàng tử: "Thưa ngài, chúng ta đã xét xử vụ án này đúng chưa?"

Hoàng tử bĩu môi đáp lại.

Ban đầu, Bồ Tát bị lừa. Ngài nghĩ: "Đây chắc hẳn là một cậu bé thông minh! Chắc hẳn cậu ta biết chúng ta đã xét xử sai." Ngài đọc một bài kệ:

"Chắc chắn chàng trai ấy thông tuệ hơn tất cả mọi người.

Hắn bĩu môi—vậy thì hắn phải nhìn thấu chúng ta!"

Ngày hôm sau, họ lại mở một phiên tòa giả. Nhưng lần này, họ đã đưa ra một quyết định hoàn toàn đúng đắn. Một lần nữa, họ lại hỏi ý kiến ​​hoàng tử.

Một lần nữa, hoàng tử bĩu môi.

Lúc đó, Bồ Tát nhận ra hoàng tử chỉ là một kẻ ngu si đần độn. Ngài đọc một bài kệ thứ hai:

"Hắn không biết đúng sai, cũng không biết xấu tốt, rõ ràng là vậy.

Hắn bĩu môi—nhưng ở đây hắn chẳng còn chút lý trí nào nữa."

Các cận thần cuối cùng cũng hiểu ra rằng hoàng tử Padanjali quá ngu ngốc để trị vì, và họ đã tôn vị Bồ Tát thông thái lên làm vua.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nhận diện những người này: "Trong kiếp trước, Laludayi (vị sư hay chế nhạo) chính là hoàng tử Padanjali ngu si đần độn. Còn ta chính là cận thần thông thái và là vua."

.

.... o ....

J247. Padanjali Jātaka -- The Prince Who Only Sneered

Summary: One monk curls his lips at the teachings of the chief disciples, causing them to walk away. The Buddha then tells a story about how the same person had curled his lips in a previous life; regardless of whether his judgment was right or wrong, he was deemed a fool.

.

This story was told by the Buddha while he was staying at the Jetavana monastery, about an elder monk named Laludayi.

One day, the Buddha's two most important disciples were having a serious discussion about a teaching. The monks who heard them praised the two disciples for their great wisdom.

Elder Laludayi was sitting there and saw the monks praising them. He curled his lip in scorn, thinking, "What is their knowledge compared to mine?" When the other monks noticed his sneer, they left him alone, and the group broke up.

Later, the monks were talking about the incident. "Friend, did you see how Laludayi curled his lip? He was mocking the two chief disciples!"

When the Buddha heard this, he said, "Monks, this is nothing new. In the past, just like now, Laludayi had no other answer but a curl of the lip."

Then, the Buddha told this story from a past life.

The Story of Prince Padanjali

Once upon a time, when King Brahmadatta ruled Benares, the Bodhisatta (the future Buddha) was the king's wise advisor on all matters.

The king had a son named Padanjali, who was very lazy and foolish. After the king died, the royal court met to discuss making Padanjali the next king.

The Bodhisatta strongly objected. "He is an idle, lazy fool," he said. "Should we really make him our king?"

The courtiers agreed to test the young man. They sat him down to observe a mock legal trial. In this first trial, the courtiers purposely made a wrong decision—they gave something to the wrong person.

Then, they asked the prince, "Young sir, did we judge this case correctly?"

The prince curled his lip in response.

The Bodhisatta was fooled at first. He thought, "This must be a clever boy! He must know we judged wrongly." He spoke a verse:

"Surely the lad is wise beyond all men.

He curls his lip—he must see through us, then!"

The next day, they held another mock trial. But this time, they made a perfectly right decision. Again, they asked the prince what he thought.

Again, the prince curled his lip.

At that moment, the Bodhisatta realized the prince was just a mindless fool. He spoke a second verse:

"He doesn't know right from wrong, nor bad from good, it's clear.

He curls his lip—but no more sense he shows here."

The courtiers finally understood that Prince Padanjali was too foolish to rule, and they crowned the wise Bodhisatta as their new king instead.

When the Buddha finished the story, he identified the people: "In that past life, Laludayi (the sneering monk) was the foolish Prince Padanjali. And I myself was the wise courtier and king."

.... o ....

J248. Kimsukopama Jātaka -- Câu hỏi của các nhà sư

Tóm tắt: Bốn vị sư trở thành A La Hán qua những con đường khác nhau và tự hỏi tại sao tất cả các con đường đều dẫn đến cùng một đích đến. Đức Phật sau đó kể một câu chuyện về những người nhìn thấy một cái cây vào những thời điểm khác nhau và mô tả nó rất khác nhau, nhưng thực chất đó là cùng một cái cây.

.

Bốn nhà sư đến gặp Đức Phật và xin Ngài giải thích cách đạt được an lạc và trí tuệ sâu sắc - điều mà họ gọi là trạng thái thánh vị ly trần.

Đức Phật giải thích những phương pháp khác nhau để thiền định và tìm thấy Niết bàn an lạc. Các nhà sư quay về, thực hành thiền định tại nơi ở của mình.

Một nhà sư tập trung vào Lục Xúc (Six Spheres of Touch: xúc của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và trở thành một vị thánh A la hán (người đã đạt được giác ngộ viên mãn).

Một nhà sư khác trở thành một vị thánh bằng cách tập trung vào Ngũ Uẩn (Five Elements of Being: sắc, thọ, tưởng, hành, thức).

Nhà sư thứ ba tập trung vào Tứ Đại (Four Principal Elements: đất, nước, gió, lửa) và cũng trở thành một vị thánh.

Nhà sư thứ tư tập trung vào Mười Tám Yếu Tố của Hữu Thể (Eighteen Constituents of Being, còn gọi là Thập Bát Giới bao gồm: sáu căn, sáu trần, sáu thức) và trở thành một vị thánh.

Tất cả họ đều trở về với Đức Phật và hào hứng chia sẻ thành công mà họ đã đạt được thông qua các phương pháp khác nhau.

Bấy giờ, một nhà sư chợt nghĩ đến Đức Phật và hỏi Ngài: "Tại sao tất cả những cách thiền định khác nhau này lại dẫn đến cùng một mục đích - Niết bàn?"

Đức Phật đáp: "Điều này chẳng phải làm các ông nhớ đến những người đã nhìn thấy cây Judas sao?"

Các nhà sư tò mò và yêu cầu Đức Phật kể lại câu chuyện. Và thế là, Đức Phật bắt đầu kể một câu chuyện từ quá khứ.

Cây Judas

Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua tên là Brahmadatta trị vì thành Benares. Ngài có bốn người con trai.

Một ngày nọ, các hoàng tử gọi người đánh xe ngựa của hoàng gia và nói: "Chúng tôi muốn xem một cây Judas. Xin hãy cho chúng tôi xem một cây!"

Người đánh xe đồng ý. Nhưng ông quyết định không cho tất cả mọi người xem cây cùng một lúc.

1. Ông đưa người con trai cả vào rừng khi cây mới bắt đầu phát triển, nên nó chỉ mới có chồi non trên thân.

2. Sau đó, ông đưa người con trai thứ hai đi khi cây đã phủ đầy lá xanh.

3. Tiếp theo, ông đưa người con trai thứ ba đi khi cây đã nở hoa.

4. Cuối cùng, ông đưa người con trai thứ tư đi khi cây đã ra quả.

Sau đó, bốn anh em đang ngồi với nhau thì có người hỏi: "Cây Judas trông như thế nào?"

Người anh cả trả lời ngay: "Trông giống như một gốc cây bị cháy!"

Người anh thứ hai kêu lên: "Không! Nó giống như cây đa!"

Người anh thứ ba tuyên bố: "Cả hai người đều sai! Nó giống như một miếng thịt!" (ám chỉ màu sắc của hoa).

Người anh thứ tư khăng khăng: "Không, nó giống như cây keo!" (ám chỉ quả).

Họ tranh cãi và thất vọng với câu trả lời của nhau, nên họ chạy đến gặp vua cha. "Thưa cha," họ hỏi: "Cây Judas thực sự trông như thế nào?"

Vua hỏi họ đã nói gì, và họ giải thích những mô tả khác nhau của mình.

Vua mỉm cười và nói: "Cả bốn người đều đã nhìn thấy cây đó! Vấn đề là khi người đánh xe ngựa chỉ cho các người, các người đã không hỏi anh ta: 'Cây trông như thế nào vào những thời điểm khác trong năm?' Các ngươi chỉ thấy một khoảnh khắc, và đó là lý do tại sao tất cả các ngươi đều mê lầm."

Và Ngài đọc cho họ nghe vần điệu này:

"Tất cả đều đã thấy cây Judas—

Tại sao các ngươi lại bối rối?

Không ai hỏi người đánh xe ngựa

Hình dạng của nó suốt cả năm!"

Sau đó, Đức Phật kết thúc câu chuyện và quay lại với các nhà sư. "Cũng giống như bốn anh em—những người đã mê lầm về cây vì họ chỉ nhìn thấy nó cùng một lúc và không hỏi về các hình dạng khác của nó—các ngươi đã rơi vào nghi ngờ về chân lý."

Sau đó, Ngài nói những lời cuối cùng đầy trí tuệ:

"Những ai biết chân lý chỉ với một phần của bức tranh toàn cảnh

Sẽ cảm thấy nghi ngờ, giống như bốn anh em với cây kia."

Đức Phật giải thích rằng mặc dù các nhà sư đều sử dụng các phương pháp thiền định khác nhau, nhưng mỗi người chỉ là một con đường hoặc một góc nhìn khác nhau về cùng một chân lý tối hậu, đó là Niết bàn. Tất cả các con đường đều dẫn đến cùng một nơi.

Sau đó, Đức Phật tiết lộ rằng, trong kiếp trước, Ngài đã từng là vị vua thông thái của Benares.

.... o ....

J248. Kimsukopama Jātaka -- The Monks' Question

Summary: Four monks become Arahats through different paths and wonder how all paths lead to the same destination. The Buddha then tells a story about people who see a tree at different times and describe it very differently, yet it is the same tree.

.

Four monks came to the Buddha and asked him to explain how to reach deep peace and understanding—what they called ecstasy.

The Buddha explained the different ways to meditate and find this peace. The monks went off to practice in their own spots.

One monk focused on the Six Spheres of Touch and became a saint (someone who had reached full enlightenment).

Another became a saint by focusing on the Five Elements of Being.

The third focused on the Four Principal Elements and also became a saint.

The fourth focused on the Eighteen Constituents of Being and became a saint.

They all returned to the Buddha and excitedly shared the success they had found through their different methods.

Then, a thought occurred to one of the monks, and he asked the Buddha, "How is it that all these different ways of meditating lead to the exact same goal—Nirvana?"

The Buddha replied, "Doesn't this remind you of the people who saw the Judas tree?"

The monks were curious and asked him to tell them the story. And so, the Buddha began a tale from the past.

The Judas Tree

A long time ago, there was a king named Brahmadatta who ruled in the city of Benares. He had four sons.

One day, the sons called for the charioteer and said, "We want to see a Judas tree. Please show us one!"

The charioteer agreed. But he decided not to show the tree to all of them at the same time.

1. He took the eldest son to the forest when the tree was just starting to grow, so it only had sprouting buds on the stem.

2. Later, he took the second son when the tree was covered in green leaves.

3. Next, he took the third son when the tree was blooming with flowers.

4. Finally, he took the fourth son when the tree was covered in fruit.

Afterward, the four brothers were sitting together when someone asked, "What does the Judas tree look like?"

The first brother immediately answered, "It looks like a burnt stump!"

The second brother cried, "No! It's like a banyan tree!"

The third brother declared, "You're both wrong! It's like a piece of meat!" (referring to the color of the flowers)

The fourth brother insisted, "No, it's like the acacia tree!" (referring to the fruit)

They argued and were frustrated with each other's answers, so they ran to their father, the King. "Father," they asked, "what does the Judas tree really look like?"

The King asked them what they had said, and they explained their different descriptions.

The King smiled and said, "All four of you have seen the tree! The problem is that when the charioteer showed it to you, you didn't ask him, 'What does the tree look like at other times of the year?' You only saw one moment, and that's why you are all confused."

And he gave them this rhyme:

"All have seen the Judas tree—

What is your perplexity?

No one asked the charioteer

What its form the livelong year!"

The Buddha then finished his story and turned back to the monks. "Just like the four brothers—who were confused about the tree because they only saw it at one time and didn't ask about its other forms—you have fallen into doubt about the truth."

He then said his final words of wisdom:

"Those who know the truth with only a part of the full picture

Will feel doubt, just like those four brothers with the tree."

The Buddha explained that even though the monks all used different methods of meditation, each one was just a different path or perspective on the same ultimate truth, which is Nirvana. All the paths led to the same place.

The Buddha then revealed that, in that past life, he had been the wise King of Benares.

.... o ....

J249. Salaka Jātaka -- Chú Sa di rời thầy

Tóm tắt: Một vị sư già truyền giới cho một chú tiểu nhưng lại đối xử tệ bạc với chú, khiến chú phải hoàn tục. Sau khi thuyết phục chú trở về với đời sống tu hành, vị sư lại đối xử tệ bạc. Đức Phật kể câu chuyện về một con khỉ bị đánh đập khi trở về với chủ, và chú đã chạy trốn vào rừng để tránh bị đánh đập thêm.

.

Câu chuyện này được Đức Thế Tôn kể lại khi Ngài còn sống tại Kỳ Viên, về một vị Trưởng lão nổi bật.

Người ta kể rằng vị Trưởng lão này đã nhận một chú sa di về tu tập và sống cùng. Tuy nhiên, vị Trưởng lão đã đối xử tệ bạc với chú tiểu.

Cuối cùng, chú tiểu không thể chịu đựng được sự đối xử tệ bạc nữa và quyết định từ bỏ việc xuất gia để trở về với cuộc sống cũ.

Khi vị Trưởng lão phát hiện ra, ông đã cố gắng thuyết phục chú Sa di quay lại. "Này chàng trai," ông nói, "ta sẽ cho con giữ y và bát của sư. Ta thậm chí sẽ cho con một bộ khác của ta! Xin hãy quay lại và gia nhập với chúng ta."

Ban đầu, chú tiểu từ chối, nhưng sau khi vị Trưởng lão nài nỉ mãi mãi, chú tiểu cuối cùng cũng đồng ý trở lại tăng đoàn.

Tuy nhiên, ngay ngày chú tiểu quay lại, vị Trưởng lão lại bắt đầu ngược đãi chú tiểu như trước.

Chú tiểu nhanh chóng nhận ra sai lầm của mình, quyết định rằng mình đã chịu đựng đủ rồi và rời bỏ tăng đoàn mãi mãi.

Khi vị Trưởng lão cố gắng nài nỉ cậu bé quay lại lần cuối, cậu bé nói: "Ngài không thể sống hạnh phúc với con mà cũng không thể sống thiếu con. Hãy để con yên - con sẽ không quay lại!"

Các nhà sư khác trong chánh điện bắt đầu bàn tán về sự việc. "Cậu bé đó thật sáng suốt!" họ nói. "Cậu ta hiểu rõ Trưởng lão đến nỗi không thể để mình bị lừa lần thứ hai."

Đức Phật bước vào và hỏi họ đang bàn tán điều gì. Khi họ kể lại câu chuyện, Ngài nói: "Sa-di đó bây giờ sáng suốt rồi, nhưng trước đây cậu cũng vậy. Khi thấy được bản chất thật sự của người kia, cậu đã từ chối tin tưởng người đó nữa."

Sau đó, Đức Phật kể cho họ nghe một câu chuyện từ rất lâu rồi.

Ngày xưa, vào thời vua Brahmadatta xứ Benares, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình bán ngũ cốc.

Một người đàn ông khác, một người bắt rắn, kiếm sống bằng nghề biểu diễn. Ông ta có một con khỉ đã được huấn luyện, và ông ta thường cho một con rắn "chiến đấu" với con khỉ để mua vui cho đám đông.

Khi một lễ hội lớn được thông báo, người bắt rắn muốn đi chơi. Ông ta để con khỉ lại cho người bán bắp (Bồ Tát) và dặn dò: "Hãy chăm sóc nó và đừng quên nó nhé."

Bảy ngày sau, người bắt rắn quay lại đón con khỉ. Con khỉ nghe thấy tiếng chủ nhân và nhanh chóng chạy ra khỏi cửa hàng bắp. Ngay lập tức, người đàn ông đánh nó bằng một khúc tre vào lưng.

Người bắt rắn sau đó đưa con khỉ vào rừng, trói nó vào một cái cây và ngủ thiếp đi.

Ngay khi thấy chủ nhân ngủ, con khỉ cởi dây thừng, bò đi và trèo lên một cây xoài cao. Nó chộp lấy một quả xoài, ăn nó, rồi ném hòn đá lớn vào đầu người bắt rắn.

Người đàn ông tỉnh dậy và nhìn lên thì thấy con khỉ. "Ta sẽ thử lừa nó xem sao," nó nghĩ, "và khi nó xuống, ta sẽ bắt nó!"

Vì vậy, để cố gắng thuyết phục con khỉ, người bắt rắn gọi với giọng ngọt ngào:

"Con sẽ như con trai của ta,

Chủ nhân trong gia đình chúng ta:

Xuống cây đi, chú ơi—

Nhanh lên và về nhà với ta nào?"

Con khỉ nghe lời nói ngọt ngào này và gọi xuống câu trả lời của chính mình:

"Chú đang cười thầm trong tay áo kìa!

Chú đã quên trận đòn đó rồi sao?

Ở đây, con bằng lòng sống

(Tạm biệt) những quả xoài chín."

Con khỉ vội vã chạy sâu hơn vào rừng và mất hút mãi mãi, bỏ lại người bắt rắn lững thững đi về nhà trong tâm trạng thất bại và giận dữ.

Khi câu chuyện kết thúc, Đức Phật giải thích các nhân vật trong kiếp sống hiện tại của họ:

"Sa di lúc đó là Khỉ. Trưởng lão là người bắt rắn. Còn ta là người buôn ngũ cốc tốt bụng."

.... o ....

J249. Salaka Jātaka -- The Novice Who Left

Summary: An elderly monk ordains a novice but is unkind to him, causing the novice to disrobe. After enticing him to return to the monastic life, the monk is again unkind. The Buddha then tells a story about a monkey who was beaten upon returning to his owner and how the monkey ran off into the forest to escape further beatings.

.

This story was told by the Master while living in Jetavana, about a distinguished Elder.

It is said that this Elder had taken on a young boy, a novice, to train and live with him. However, the Elder treated the boy badly.

Finally, the novice couldn't stand the unkind treatment anymore and decided to give up being a monk and return to his old life.

When the Elder found out, he tried to coax him back. "Look, lad," he said, "I'll let you keep your monk's robes and bowl as your own. I'll even give you another set that belongs to me! Please, come back and join us."

At first, the boy refused, but after the Elder begged and begged, the novice finally agreed to rejoin the community.

However, the very day the novice came back, the Elder began to mistreat him just as he had before.

The boy quickly realized his mistake, decided he had had enough, and left the order for good.

When the Elder tried to beg him to return a final time, the boy said, "You can neither live happily with me nor live without me. Leave me alone—I will not come back!"

The Story of the Monkey

The other monks in the main hall began talking about the incident. "That boy is sensible!" they said. "He knew the Elder too well to let himself be fooled a second time."

The Buddha came in and asked what they were discussing. When they told him the story, he said, "The novice is sensible now, but he was just the same in the past. Once he saw the true nature of that man, he refused to trust him again."

Then, the Buddha told them a story from a long, long time ago.

In the past, during the time of King Brahmadatta of Benares, the Bodhisatta (the Buddha in a former life) was born into a family that sold corn.

Another man, a snake-charmer, earned a living by putting on shows. He had a monkey he had trained, and he would make a snake "fight" with the monkey for the entertainment of the crowd.

When a big festival was announced, the snake-charmer wanted to go and enjoy himself. He left his monkey with the corn-merchant (the Bodhisatta) and told him, "Please take care of him and don't forget about him."

Seven days later, the snake-charmer came back to get his monkey. The monkey heard his master's voice and quickly ran out of the corn shop. Immediately, the man hit him across the back with a piece of bamboo.

The snake-charmer then took the monkey to the woods, tied him to a tree, and fell asleep.

As soon as the monkey saw that his master was asleep, he untied his ropes, scrambled away, and climbed up a tall mango tree. He grabbed a mango, ate it, and dropped the large stone right on the snake-charmer’s head.

The man woke up and looked up to see the monkey. "I'll try to trick him," he thought, "and when he comes down, I'll catch him!"

So, to try and persuade the monkey, the snake-charmer called out with a sweet voice:

"Like my own son you shall be,

Master in our family:

Come down, Nuncle from the tree—

Come and hurry home with me?"

The monkey listened to this smooth talk and called down his own reply:

"You are laughing in your sleeve!

Have you quite forgot that beating?

Here I am content to live

(So good-bye) ripe mangoes eating."

The monkey then quickly ran deeper into the wood and was lost forever, leaving the snake-charmer to walk home completely defeated and angry.

When the story was over, the Buddha explained who the characters were in their current lives:

"The novice was the Monkey. The Elder was the snake-charmer. And I myself was the good corn-merchant."

.... o ....

J250. Kapi Jātaka -- Vị Tăng Đạo Đức Giả

Tóm tắt: Một vị sư đang lừa dối, khiến các vị sư khác bàn tán. Đức Phật giải thích rằng trong một kiếp trước, vị sư này từng là một con khỉ cải trang thành tu sĩ để sưởi ấm bên đống lửa, nhưng bị phát hiện và bị đuổi đi.

.

Ngày xưa, Đức Phật đang ở tại một nơi gọi là Kỳ Viên. Ngài kể câu chuyện về một vị tăng hành xử như một bậc thánh nhưng không chân thành - tức là, một kẻ đạo đức giả.

Các vị tăng khác phát hiện ra một vị sư đang hành xử đạo đức giả. Họ tụ tập tại chính điện và bàn tán về chuyện này. "Này hiền hữu, vị sư đó đang khoác trên mình chiếc áo cà sa của Đức Phật, con đường dẫn đến giải thoát, vậy mà ông ta vẫn đang sống bất lương."

Đức Phật bước vào chánh điện và hỏi họ đang bàn tán điều gì. Khi họ kể lại, Ngài nói: "Này các hiền hữu, đây không phải lần đầu tiên vị tăng này hành xử đạo đức giả. Ông ta đã hành xử đạo đức giả từ rất lâu rồi, khi ông ta chỉ giả vờ làm người khác để sưởi ấm bên đống lửa."

Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ.

Con Khỉ Mặc Y Phục Của Ẩn Sĩ

Ngày xửa ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Benares, Bồ Tát được sinh ra trong một gia đình trí thức.

Khi Bồ Tát trưởng thành, vợ ngài qua đời. Ngài đưa con trai nhỏ rời nhà đến ẩn cư trên dãy núi Himalaya. Họ sống một cuộc sống giản dị trong một túp lều nhỏ làm bằng lá.

Đó là mùa mưa, mưa như trút nước không ngừng. Một con Khỉ lang thang khắp nơi, run rẩy không ngừng vì lạnh.

Bồ Tát mang một khúc gỗ lớn vào nhà và nhóm lửa sưởi ấm. Ngài nằm trên chiếu, con trai ngồi gần đó, xoa bóp chân.

Con Khỉ này tìm thấy một bộ quần áo thừa của một vị ẩn sĩ đã khuất. Nó mặc vào người bộ quần áo trên và quần trong, khoác một tấm da thú lên vai, tay cầm một cây gậy và một bình nước - trông giống hệt một vị thánh lữ hành.

Mặc bộ quần áo mượn được, con Khỉ đi thẳng đến túp lều lá để sưởi ấm bên đống lửa.

Con trai của Bồ Tát nhìn thấy bóng người run rẩy, liền kêu lên với cha: "Cha ơi! Có một vị thánh đang run rẩy vì lạnh! Hãy gọi ngài vào nhà để sưởi ấm!"

Người con trai nói:

"Một vị thánh đang run rẩy trước cổng nhà chúng con,

Một vị thánh, xin dâng lên cho hòa bình và phước lành.

Cha ơi! Hãy mời vị thánh vào,

Để mọi lạnh lẽo và đau khổ của ngài được xoa dịu."

Bồ Tát nghe con trai nói, đứng dậy và nhìn. Ngài nhận ra ngay đó là một con khỉ chứ không phải một ẩn sĩ chân chính. Ngài đáp:

"Hắn không phải là thánh: đó là một con khỉ hèn hạ

và đáng ghét, tham lam muốn cướp bóc

mà hắn gọi là chạm vào, sống giữa rừng cây;

Một khi hắn vào, nhà chúng ta sẽ bị ô uế."

Nói xong, Bồ Tát cầm lấy một que củi và dọa con khỉ bỏ chạy. Rồi khỉ nhảy lên, và dù có thích khu rừng này hay không, khỉ cũng không bao giờ quay lại nơi đó nữa. Bồ Tát tu tập các căn và các quả vị, và giải thích cho người con về quá trình thiền định. Vị ẩn sĩ trẻ cũng để cho phòng hộ các căn và các quả vị khởi lên trong mình. Cả hai, không gián đoạn trong trạng thái thiền định, đều được định sẵn để tái sinh vào cõi Phạm Thiên.

Vì vậy, Đức Phật đã thuyết giảng để chứng minh rằng người đàn ông này không chỉ là một kẻ đạo đức giả vào lúc đó mà đã luôn là một kẻ đạo đức giả từ tiền kiếp. Sau khi kết thúc, Ngài tuyên bố các Chân lý và xác định Sự tái sinh. Khi kết thúc các Chân lý, một số vị sư đã đạt được sơ quả Nhập Lưu, những người khác đạt được nhị quả Nhất Lưu, và những người khác nữa đạt được tam quả Bất Lai. "Nhà sư đạo đức giả kia quá khứ là Khỉ, La Hầu La là con trai, và chính ta là ẩn sĩ."

.... o ....

J250. Kapi Jātaka -- The Hypocritical Monk

Summary: One monk is being very deceitful, which causes the other monks to talk about him. The Buddha explains that in a previous life, this monk had been a monkey who dressed as an ascetic to try to gain warmth from a fire but was discovered and chased away.

.

Once upon a time, the Buddha was staying in a place called Jetavana. He told a story about one of the monks who was acting like a saint but wasn't sincere—a hypocrite.

The other monks found out that a certain brother was being a hypocrite. They gathered in the main hall and talked about it. "Friend," they said, "that monk is wearing the robes of the Buddha's path, which leads to salvation, but he's still practicing dishonesty."

The Buddha entered the hall and asked what they were discussing. When they told him, he said, "Brethren, this isn't the first time this monk has been a hypocrite. He was a hypocrite even long ago, when he was simply pretending to be someone else just to get warm by a fire."

Then, the Buddha told a story from the past.

The Monkey in the Hermit's Clothes

A long time ago, when King Brahmadatta ruled Benares, the Bodhisatta was born into a wise family.

When the Bodhisatta grew up, his wife died. He took his young son and left home to become a hermit in the Himalayan mountains. They lived a simple life in a small hut made of leaves.

It was the rainy season, and the rain was pouring down nonstop. A Monkey was wandering around, shivering uncontrollably from the cold.

The Bodhisatta had brought a large log inside and lit a warm fire. He was lying down on his mat while his son sat nearby, rubbing his feet.

Now, this Monkey had found a spare set of clothes that belonged to a dead hermit. He dressed himself in the top and bottom garments, threw an animal skin over his shoulder, and carried a stick and a waterpot—making himself look exactly like a traveling holy man.

Dressed in these borrowed clothes, the Monkey came right up to the leaf-hut to get warm by the fire.

The Bodhisatta's son saw the shivering figure and immediately cried out to his father, "Look, Father! There's a holy man, and he's shaking from the cold! Call him inside so he can warm himself!"

The son said:

"A holy sage stands shivering at our gate,

A sage, to peace and goodness consecrate.

O father! bid the holy man come in,

That all his cold and misery may abate."

The Bodhisatta listened to his son, stood up, and took a look. He immediately recognized the figure as a monkey and not a true hermit. He replied:

"No holy sage is he: it is a vile

And loathsome Monkey, greedy all to spoil

That he call touch, who dwells among the trees;

Once let him in, our home he will defile."

With these words, the Bodhisatta seized a firebrand and scared away the monkey. He then leaped up, and whether he liked the wood or not, he never returned to that place again. The Bodhisatta cultivated the Faculties and the Attainments, and to the young ascetic, he explained the process of the mystic trance. The young ascetic also allowed the Faculties and the Attainments to arise within him. Both of them, without interruption in their ecstasy, became destined for Brahma’s world.

Thus, the Buddha discoursed to demonstrate that this man was not only a hypocrite at that moment but had always been one. After concluding, he proclaimed the Truths and identified the Birth. At the conclusion of the Truths, some attained the First Path, others the Second, and still others the Third. “The hypocritical brother was the Monkey, Rahula was the son, and I was the hermit myself.”

.... o ....

.

.

.

Bình luận