Tâm Phật Ví Như Hoa Sen

Đã đọc: 8596           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Đức Phật không phải là một vị thần linh, thượng đế ban phước giáng họa cho con người mà đức Phật chính là con người giống như tất cả mọi người chúng ta. Ngài cũng được sinh ra từ bụng mẹ, vẫn hưởng đầy đủ dục lạc ở thế gian, nhưng nhờ biết cách buông xả mà thoát khỏi vũng bùn ngũ dục và trở thành đấng giác ngộ hoàn toàn.

Tâm Phật Ví Như Hoa Sen

Hoa sen mọc chốn bùn nhơ,

Nở hoa tươi thắm ngát thơm cuộc đời.

Thân này nhơ nhớp vô thường,

Có tâm thanh tịnh sáng soi muôn loài.

Trong sự quyền uy tột bực với tất cả những gì đang hiện hữu mà người đời ai cũng tham muốn để có được là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp và ngủ nghỉ thoải mái nhưng cách nay hơn 2600 năm một vị Hoàng thái tử đã thoát ra được và tu hành giác ngộ thành Phật.

Đức Phật không phải là một vị thần linh, thượng đế ban phước giáng họa cho con người mà đức Phật chính là con người giống như tất cả mọi người chúng ta. Ngài cũng được sinh ra từ bụng mẹ, vẫn hưởng đầy đủ dục lạc ở thế gian, nhưng nhờ biết cách buông xả mà thoát khỏi vũng bùn ngũ dục và trở thành đấng giác ngộ hoàn toàn.

Trong thế gian hầu như tất cả mọi người đều bị dính mắc bởi tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp và ngủ nhiều. Trong các chùa chúng ta đều thấy tượng đức Phật ngồi ngự trên toà sen, cũng có nhiều chùa thờ tượng đức Phật tay cầm một cành sen.

Nếu đọc lịch sử của Ngài chúng ta được biết đức Phật đã ngồi dưới cội Bồ-đề Thiền định và đắc thành Chánh quả. Vậy tại sao chúng ta lại thờ đức Phật ngồi ngự trên tòa sen, thờ như vậy có làm sai ý nghĩa hay không? Tòa sen mang ý nghĩa gì mà ai tu theo đạo Phật cũng đều quí trọng nên luôn thờ Phật ngồi ngự trên tòa sen? Đó là những điều cần biết mà người Phật tử phải hiểu cho rõ để khi có người hỏi ta biết cách trả lời cho đúng. 

Như chúng ta đã biết, hoa sen luôn mọc trong ao, trong hồ và từ chỗ bùn nhơ mà ra. Như vậy, giá trị của hoa sen là từ chốn bùn nhơ đã vươn lên khỏi bùn, ra khỏi mặt nước rồi trổ hoa thơm ngát. Điểm đặc biệt của hoa sen là có nhụy và hột cùng một lúc, điều này các loài hoa khác không có được.

Sen là một loài hoa rất khác biệt, khi còn ươm mầm hoa ẩn trong bùn, đến khi gần trổ thì vượt khỏi bùn, vươn lên mặt nước rồi mới trổ hoa. Đặc tính của sen khi còn trong bùn thì hôi, khi đã nở hoa thì hương thơm ngào ngạt. Thế cho nên, đạo Phật dùng hoa sen làm hình ảnh tượng trưng cho người tu hành chân chính đã vượt khỏi ngũ dục thế gian mà thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.

Theo lịch sử, đức Phật khi còn là Hoàng thái tử con vua Tịnh Phạn đã sống trong cảnh quyền quý cao sang, sung túc đủ đầy với kẻ hầu người hạ nên muốn gì được đó. Tuy sống chìm đắm trong ngũ dục thế gian nhưng Ngài đã thức tỉnh khi thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một thầy tu. Ngài suy tư, quán chiếu và thấy rõ mình rồi cũng sẽ già, sẽ bệnh, sẽ chết nên đã quyết định bỏ lại tất cả để ra đi cầu đạo giải thoát. Cuối cùng, Ngài đã chứng được đạo vô thượng Chánh đẳng giác và thành Phật.

Giá trị của hoa sen là từ chỗ nhơ nhớp, hôi hám mà trổ ra hoa có mùi hương tinh khiết. Đó là đặc tính của cây sen, cũng chính vì thế mà hoa sen được chọn làm biểu tượng cao quý trong nhà Phật.

Khi còn ở trong cung vàng điện ngọc với đầy đủ dục lạc thế gian, thái tử được ví như hoa sen ở trong bùn. Khi đã bỏ lại tất cả để vượt thành xuất gia cầu đạo, Ngài được ví như hoa sen vượt khỏi bùn nhưng vẫn ở trong nước. Đến khi cố gắng, tinh tấn tu hành rồi đạt được kết quả viên mãn, giác ngộ giải thoát, Ngài được ví như hoa sen vươn khỏi mặt nước để nở hoa thơm ngát. 

Cũng giống như thế, hoa sen từ lúc mới mọc cho đến khi trổ hoa cũng trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn một khi còn ở trong bùn, giai đoạn hai khi đã ra khỏi bùn nhưng còn ở trong nước, giai đoạn ba khi đã vươn khỏi nước nở hoa thơm ngào ngạt.

Chúng ta được biết hoa sen mọc lên từ bùn lầy, nếu không có bùn lầy nuôi dưỡng thì cây sen không sống được. Cũng vậy, người tu chúng ta không thể rời bỏ cuộc sống này để tìm đạo giác ngộ, giải thoát. Ngay chính nơi cuộc sống với đủ thứ tốt xấu, hơn thua, phải trái, đúng sai, buồn vui lẫn lộn mà ta phải cố gắng chuyển hóa những nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Đó mới là tinh thần tích cực của những người biết buông xả tâm xấu ác làm hại người hại vật.

Có thể nói, hoa sen là một biểu tượng quan trọng mà hầu hết các kinh điển Phật giáo đều nói đến, nhất là bộ Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”. Ngoài ra, hoa Sen còn được biểu trưng qua những lãnh vực khác mang tính đặc thù văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc theo Phật giáo. Trên thực tế, các chùa, tự viện hay các gia đình Phật tử cũng thường lấy hoa Sen làm biểu tượng đặc trưng. Do đó, ở đây chúng tôi chỉ xin giải thích một cách khái lược một vài đặc tính tiêu biểu của hoa sen mang ẩn nghĩa sâu sắc trong nhà Phật.

Hoa sen có tám đặc tính kỳ diệu. Đặc tính thứ nhất là tính không nhiễm. Hoa sen dù được mọc lên từ bùn nhơ nhưng bản chất của nó vẫn tinh khiết, trong sạch, không bị bùn lầy làm ô nhiễm. Ca dao Việt Nam có bài thơ:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng

Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Dù nằm trong bùn qua nhiều năm tháng nhưng thân sen không bị ô uế mà vẫn chờ ngày vươn mình khỏi mặt nước để nở hoa khoe hương thơm với đời. Bùn là tượng trưng cho phiền não tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến. Hoa sen là biểu tượng của sự thanh tịnh, sáng suốt. Quá trình nở hoa của sen cũng giống như cuộc sống của chư Phật, chư Bồ tát khi thị hiện vào đời. Các Ngài cũng sống, cũng sinh hoạt ăn uống, làm việc như tất cả mọi người nhưng không hề bị dòng đời cuốn trôi. Ngược lại, những phàm phu như chúng ta thì đụng đâu dính đó bởi sự cố chấp nơi mỗi người.

Tất cả chúng ta ai cũng có sẵn Phật tính sáng suốt, cũng như bản chất của gương là sáng nhưng bị bụi bẩn che mờ. Cũng vậy, chúng ta vì vô minh che lấp nên chạy theo vọng nghiệp trần lao mà tạo ra nhiều tội lỗi. Hình ảnh cây sen vươn lên khỏi bùn rồi nở hoa tinh khiết cũng giống như người tu hành chân chính sống giữa cuộc đời biết bao dính mắc mà vẫn vươn lên làm chủ bản thân để cùng chia vui sớt khổ với tất cả mọi người.

Đặc tính thứ hai là lóng trong, tinh khiết. Nếu chúng ta có thời gian quán sát chỗ nào có cây sen mọc thì sẽ thấy nước nơi đó không bao giờ đục. Đó là điểm đặc trưng của tính lóng trong nơi cây sen. Điều này mang ẩn nghĩa nơi nào có chư Phật-Bồ tát ra đời thì nơi đó chúng sinh được an vui, lợi lạc. Nơi nào có Phật pháp thì nơi đó giảm bớt khổ đau nhờ chúng sinh biết cách thay đổi, chuyển hóa tâm xấu ác. Ngược lại, nơi nào có nhiều phần tử xấu ác, bất lương thì nơi đó tệ nạn lan tràn làm khổ đau, tổn hại đến nhiều người.

Hoa sen có những đặc điểm rất kỳ diệu. Tuy hoa rất đẹp, thơm và quyến rũ nhưng không một loài côn trùng nào có thể xâm hại bởi trong nhụy có chất dịch tinh khiết làm các loài côn trùng không dám đến gần. Đặc tính này ý chỉ cho tâm Phật sáng suốt nơi mỗi người. Nếu chúng ta thường xuyên lóng trong mọi cấu uế nhơ bẩn của phiền não tham-sân-si thì nước hồ tâm sẽ ngày càng trong sạch, cũng như đức hạnh của người tu hành chân chính luôn tu tâm tích đức, làm lợi ích cho chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán vì không thấy có ta-người-chúng sinh. Nhờ vậy, chúng ta có thể vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành vô lượng trí tuệ, từ bi.

Đặc tính thứ ba là kiên nhẫn, chịu đựng. Như chúng ta đã biết, hoa sen là loài hoa mọc lên từ rễ củ. Hoa mang đặc tính kiên nhẫn, chịu đựng vì rễ củ của nó nằm trong bùn một thời gian dài để chờ khi hội đủ nhân duyên sẽ nẩy mầm. Sự chờ đợi đó ví như đức tánh kiên nhẫn, chịu đựng cần có nơi những người con Phật trong mọi hoàn cảnh để có cơ hội dấn thân đóng góp mà không thấy có ta-người-chúng sinh nên dễ dàng buông xả tâm xấu ác và sự chấp trước của mình.

Khi nói về đặc tính này bản thân chúng tôi thật tình rất hổ thẹn vì còn sân giận quá nhiều nên đã bỏ qua nhiều cơ hội tốt. Thói quen chấp trước, dính mắc nhiều đời làm cho ta tham lam, ích kỷ rồi dẫn đến sân giận, ngay khi ấy nếu không đủ sức kiềm chế lại thì sự nghiệp tu hành bao nhiêu năm liền tan thành mây khói.

Việc đời hay việc đạo muốn đạt được kết quả tốt đẹp thì trước tiên chúng ta phải có đức tính kiên nhẫn, chịu đựng này. Chính vì vậy, người Phật tử chân chính muốn có tâm từ bi rộng lớn cần phải thực hành hạnh nhẫn nhục, cũng như hoa sen đã kiên nhẫn chịu đựng để rồi vươn lên khỏi mặt nước và nở hoa thơm ngát.

Đặc tính thứ tư là trong sạch vô ngại. Đức tính này duy nhất chỉ có ở hoa sen khi nhụy hoa được bao bọc bởi những cánh hoa tròn trịa, từ lúc nở cho đến lúc tàn không hề bị các loài ong bướm tìm đến bu đậu để hút lấy mật hoa.

Hoa sen cũng sẽ tàn lụi theo thời gian như các loài hoa khác, nhất là vào mùa đông, nhưng đến mùa xuân thì hoa sen lại vươn lên mạnh mẽ. Bên cạnh đó, nhiều hạt sen, củ sen có thể bị chôn vùi dưới bùn đất nhưng lại có thể tồn tại suốt một thời gian dài mà không bị hủy diệt, đến khi nhân duyên đầy đủ vẫn sẽ vươn lên mạnh mẽ đầy sức sống.

Giữa mùa hè nóng bức nhưng thân sen vẫn vươn mình mọc lên và trổ hoa thơm ngát, cũng như con người đang bị lửa phiền não tham-sân-si thiêu đốt nhưng vẫn đủ sức nhẫn chịu để làm mới lại chính mình nhờ biết cách buông xả tâm xấu ác. Điều này ngụ ý chư Phật-Bồ tát ra đời trong cõi ngũ trược. Chúng sinh nhiều phiền não, bức bách, khó chịu sẽ được các Ngài mang nước cam lồ tưới tẩm làm dịu mát thân tâm.

Đặc tính thứ năm là hương vị tinh khiết, nhẹ nhàng. Hoa sen không những có hương vị tinh khiết mà còn có sắc đẹp hài hòa khiến cho mọi người ưa thích ngắm nhìn không biết chán. Hoa thường có hai màu chính là màu trắng và màu hồng. Điểm đặc biệt của hương sen là chỉ thoang thoảng, nhẹ nhàng nhưng lại rất quyến rũ, tạo cho con người một cảm giác an lành khi được chiêm ngưỡng, ngắm nhìn.

Đặc tính thứ sáu là ngay thẳng và rỗng không. Ít có loài hoa nào mọc lên mà có thân hình ngay thẳng như hoa sen. Cũng lại như thế, người tu hành chân chính dù sống trong hoàn cảnh bị ô nhiễm nhưng vẫn tỉnh giác trong từng phút giây, không bị các niệm phải quấy, tốt xấu, hơn thua, thiện ác chi phối làm vẩn đục tâm. Sống được như vậy chúng ta mới thật sự bình yên, hạnh phúc như hoa sen vươn khỏi bùn nhơ tỏa hương thơm tinh khiết.

Tuy trong ruột rỗng không nhưng thân sen luôn đứng thẳng, điều này ý chỉ việc tu tâm sửa tính của người tu không phân biệt xuất gia hay tại gia. Lẽ sống của họ là biết buông xả tất cả tạp niệm để giữ tâm luôn thanh tịnh, sáng suốt. Bên cạnh đó, điểm đặc biệt này còn mang ý nghĩa người tu hành cần phải có đức tính từ-bi-hỷ-xả, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ và không thấy ai là kẻ thù.

Đặc tính thứ bảy là nhân quả đồng thời. Các loài hoa khác khi bông tàn mới kết nụ, thành trái và có hột. Ngược lại, hoa sen khi nở ra đã có sẵn gương sen và hạt sen. Đó là nhân quả đồng thời. Điều này nói lên triết lý nhân quả không bao giờ sai khác, nhân quả như hình với bóng, hình như thế nào thì bóng như thế đó. Ngoài ra, ngay nơi thân vô thường sinh-già-bệnh-chết, mọi người đều có tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt nhưng thường biết rõ ràng. Tâm Phật ấy nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý vẫn thấy biết mà không bị tất cả các niệm thiện ác, phải quấy, tốt xấu, hơn thua chi phối.

Đặc tính thứ tám là tính hy sinh. Người ta thường dùng lá sen để gói cốm hoặc hấp cơm sen, dùng lá non và hoa để làm thuốc, còn thân sen, củ sen và hạt sen được dùng làm thức ăn. Hầu như toàn bộ các bộ phận của cây sen đều mang lại lợi ích cho con người. Điều này nói lên tinh thần từ-bi-hỷ-xả của đạo Phật luôn sẵn sàng dấn thân đóng góp, giúp đỡ sẻ chia bằng trái tim yêu thương và hiểu biết vì mọi người khi có nhân duyên.

Vì những đặc tính vô cùng cao quý ấy nên hoa sen là hình ảnh độc nhất vô nhị luôn gắn liền với đạo Phật từ ngàn xưa cho đến ngày nay, là hình ảnh biểu trưng của Phật giáo Việt Nam cũng như Phật giáo thế giới. Và thật hoàn toàn xứng đáng khi dân tộc ta đã chọn hoa sen là quốc hoa của đất nước.

Tiếp đến chúng ta sẽ nói về ý nghĩa của hoa sen theo tinh thần Phật giáo phát triển trong Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”. Pháp là Diệu Pháp, Liên Hoa là hoa sen, Diệu Pháp được ví như hoa sen nên gọi là Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”.

Diệu Pháp là gì? Tức là Tri kiến Phật. Kinh Pháp Hoa nói: “Chư Phật ra đời vì khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”, nghĩa là chỉ dạy cho chúng ta ngộ được Tri kiến Phật, tức là cái thấy biết Phật của mình. Vậy cái thấy biết này ra sao? Là thường biết rõ ràng, nương nơi mắt thấy chỉ là thấy mà không khởi tâm động niệm dính mắc đối với các hình ảnh, sự vật, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.  

Trong Kinh “Pháp Hoa” Phật dạy ba cõi không an giống như ở trong nhà lửa. Thân vô thường của chúng ta bị thiêu đốt bởi lửa phiền não tham-sân-si làm cho ta chết trong từng phút giây. Tuy nhiên, ngay nơi thân này có cái chưa từng bị thiêu đốt và luôn nguyên vẹn, sáng trong. Đó là tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt thấy biết đúng như thật.  

Như chúng ta đã biết, cuộc đời đức Phật trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn một là đắm mê dục lạc ở thế gian. Giai đoạn hai là thấy rõ được sự tác hại của nó mà bỏ hết tất cả để vượt thành xuất gia. Giai đoạn ba là do Ngài biết cách điều hòa thân tâm và siêng năng tinh tấn tu hành nên giác ngộ thành Phật viên mãn.  

Có một vị Tăng đã hỏi một Thiền sư: “Hoa sen khi chưa ra khỏi nước thì thế nào?” Vị Thiền sư đáp: “Hoa sen”. Vị Tăng lại hỏi: “Sau khi ra khỏi nước thì thế nào?” Thiền sư lại đáp: “Lá sen”.

Ở đây, nếu chúng ta chạy theo ngôn ngữ của các vị Thiền sư thì ta sẽ bị các Ngài lừa. Vì sao vậy? Vị Tăng hỏi “hoa sen khi chưa ra khỏi nước thì thế nào” là ý ngầm hỏi Phật tính của chúng ta hình tướng ra sao. Để dẹp bỏ tình thức nhạy bén của vị Tăng nên Thiền sư trả lời “hoa sen”. Khi vị Tăng hỏi tiếp “sau khi ra khỏi nước thì thế nào” thì lẽ ra Thiền sư phải trả lời rằng “sau khi ra khỏi nước thì sen sắp nở hoa”, cũng như tâm Phật của chúng ta khi không bị vọng niệm phiền não che chướng thì thanh tịnh sáng suốt, có thiếu vắng bao giờ đâu. Ở đây, Thiền sư đáp “hoa sen”, “lá sen” là ngụ ý nói chỉ nghe trong tỉnh giác, tức nghe chỉ là nghe mà không khởi vọng niệm.  

Khi tâm chúng ta không còn chạy theo ngoại cảnh lăng xăng nữa thì tâm thanh tịnh sáng suốt sẽ hiện tiền, cũng như mùi hương thơm ngát của hoa sen không còn bị bùn lầy làm vấy bẩn. Ở ngay nơi cuộc sống hiện tại mà ta không chịu tu mà lại đòi vô rừng sâu núi thẳm mới tu thì như thế sẽ lại càng khó tiến tu vì tâm ta chưa vững vàng. Chúng ta làm sao để giống như hoa sen tuy ở trong bùn nhưng luôn trong sạch, tu như thế mới thật sự được lợi ích cho mình và người.

Người tu chúng ta cần phải biết mình còn dở cái gì để cố gắng bỏ từ từ cho đến khi hết mới thôi. Đừng cống cao ngã mạn mà khinh thường người khác khi tự cho mình hay mình giỏi. Chúng ta phải biết khiêm tốn thấp mình, biết hổ thẹn khi làm điều gì sai quấy và thành tâm ăn năn sám hối để sửa chữa lỗi lầm.

Trong cuộc sống mà thiếu đi những người tu hành chân chính là một thiệt thòi lớn với thế gian này bởi không có ai hướng dẫn đạo lý làm người cho chúng ta. Một cộng đồng xã hội mà không có đạo đức thì tệ nạn sẽ lan tràn làm ảnh hưởng và gây đau khổ cho nhiều người. Nếu ai cũng nhiễm những thói hư tật xấu như giết người, trộm cướp, lường gạt, lừa đảo tinh vi bằng nhiều hình thức… thì thử hỏi cuộc sống này sẽ ra sao? Chính vì lợi ích của nhân loại, lợi ích của nhiều người mà chúng ta phải cố gắng tu hành để mở rộng tấm lòng từ bi rộng lớn nhằm chia vui, sớt khổ với tinh thần vô ngã, vị tha. Những việc làm tốt đạo, đẹp đời luôn giúp cho xã hội tạm thời vượt qua nỗi khổ, niềm đau để được an vui, hạnh phúc bằng trái tim thương yêu và hiểu biết ngay tại đây và bây giờ.

Con đường thiết lập hạnh phúc dẫn đến bình yên lâu dài phải được chính mỗi cá nhân thực hiện, không ai có thể làm giúp cho ta. Ta làm ác là từ thân-miệng-ý nên ta làm tốt cũng từ đó mà ra. Người khôn ngoan, sáng suốt sẽ chọn điều tốt, điều lành để làm. Cuộc sống thế gian nếu có nhiều người thiếu đạo đức thì xã hội sẽ dễ dàng loạn lạc và số đông sẽ sống trong đau khổ, lầm mê.

Khi chúng ta đạt được một cái gì như ý thì ngay đó sự ganh ghét tật đố, sự lo lắng sợ hãi và tham lam ích kỷ phát sinh. Đức Phật đã bảo “hãy đến đây và tu tập để giải thoát”. Dĩ nhiên, chúng ta không thể dễ dàng sống theo tuệ giác của Thế tôn mà phải chịu khó chịu khổ và bằng lòng với hiện tại, sống với tinh thần “muốn ít biết đủ” và có sự điều độ, hài hòa.

Nói tóm lại, chúng ta thấy hoa sen vươn lên từ bùn nhưng không hề bị bùn làm ô nhiễm. Cũng vậy, tâm Phật sẽ hiện tiền khi ta biết sống trong tỉnh giác vì không bị trần lao mê hoặc. Thân này vô thường đổi thay nên ai cũng phải chịu sự chi phối của già-bệnh-chết. Tuy nhiên, ngay nơi thân ô uế này luôn có tâm Phật thanh tịnh sáng suốt nương nơi mắt thấy chỉ là thấy nhưng vẫn thường biết rõ ràng, thấy tức biết, biết mà không khởi tâm động niệm dính mắc ta-người-chúng sinh, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Chính vì vậy mà tâm Phật được ví như hoa sen và đó là điểm mầu nhiệm đặc biệt của Phật giáo.

 LỜI PHẬT DẠY VỀ CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN

Ngày xưa có một ông nhà giàu quanh năm suốt tháng cứ mải mê đầu cơ tích trữ, nuôi tham vọng làm giàu để bồi đắp cho bản thân bất chấp mọi thủ đoạn bóc lột để mình được giàu có, sung túc đủ đầy.

Một lần nọ vợ ông bệnh nặng, ông đã thỉnh một vị Tăng về nhà tụng kinh cầu an để tiêu trừ nghiệp chướng. Ông nói với vị Tăng: “Nhờ thầy tụng kinh cầu nguyện chư Phật và Bồ-tát gia hộ cho gia đình tôi được bình an, việc làm ăn của gia đình ngày càng thêm phát đạt, vợ tôi mau qua khỏi cơn trọng bệnh, con cháu tôi sớm được thăng quan tiến chức và tiền bạc vô đều đều”.

Vị Tăng nghe ông nhà giàu nói vậy thì muốn cảnh tỉnh ông nên bèn dùng pháp làm lễ mà khấn lớn tiếng rằng: “Nguyện cầu chư Phật và chư Bồ-tát từ phương xa mau về đây từ bi chứng giám, hiện tiền gia chủ cầu khẩn chư Phật, chư Bồ-tát gia hộ cho gia đình ông ta được bình an, hạnh phúc, con đông cháu đầy, việc làm ăn ngày càng thịnh vượng, vợ ông bệnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, mọi người trong gia đình đều được như ý muốn”.

Nghe vị Tăng khấn nguyện như vậy ông nhà giàu lấy làm ngạc nhiên, ông thắc mắc: “Tại sao thầy lại cầu khẩn chư Phật và Bồ-tát phương xa mà không thỉnh các vị ở gần đây để các vị ấy đến đây ban phúc đức cho gia đình con nhanh chóng?”

Vị Tăng trả lời: “Sở dĩ tôi không cầu Phật và Bồ-tát ở gần là vì e ngại các vị ấy không chịu đến để giúp cho gia đình ông. Ông hãy suy nghĩ lại đi! Ông nay đã trên 60 tuổi, sắp gần đất xa trời rồi mà chưa từng biết giúp đỡ một ai, nói chi là bố thí cúng dường, ngược lại còn tham lam bỏn sẻn, sân hận chửi mắng, đánh đập người khác, không biết tôn trọng mọi người, có của dư thừa thà đem đổ bỏ mà không chịu san sẻ cùng người. Bởi chư Phật và Bồ-tát ở gần đây đều biết ông tham lam, bỏn sẻn, keo kiết nên các Ngài sẽ không đến giúp gia đình ông đâu. Chính vì vậy mà tôi phải thỉnh cầu chư Phật và Bồ-tát ở phương xa về giúp ông ít nhiều gì đó.”

Đây là một câu chuyện ngụ ngôn mang một triết lý sâu sắc nhằm nhắc nhở chúng ta phải tin sâu nhân quả, muốn được sống an vui hạnh phúc về vật chất lẫn tinh thần thì phải biết gieo nhân tốt. Chúng ta muốn cầu Phật và Bồ-tát có sự cảm ứng thì lúc nào cũng phải sống có nhân cách đạo đức tốt, biết giúp đỡ người khác khi gặp hoàn cảnh khó khăn, luôn mở rộng tấm lòng vô ngã vị tha… Phật và Bồ-tát là những bậc toàn chơn, toàn giác, toàn thiện, toàn mỹ, muốn cầu các Ngài có cảm ứng thì tâm niệm và việc làm của chúng ta phải tương ưng với hạnh nguyện của các Ngài.

Trên thế gian không chỉ riêng ông nhà giàu nọ mà có rất nhiều người không biết tội phước là gì nên không tin nhân quả. Họ điên đảo làm các việc xấu ác, đến lúc gặp quả xấu thì van xin, lạy lục, cầu xin Phật, Bồ-tát giúp cho.

Nhân quả công bằng khi đủ duyên thì quả tốt hay xấu sẽ đến, đâu có Phật, Bồ-tát ban phước giáng họa cho ta được. Nếu Phật làm được điều đó thì đâu có khuyên ta hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp. Phật luôn khuyên mọi người tin sâu nhân quả mà ráng cố gắng làm điều lành, dứt trừ việc ác và luôn giữ tâm ý trong sạch.

Những người có tâm địa không tốt, xấu xa, độc ác, tham lam, ích kỷ, hẹp hòi thì làm sao có được kết quả tốt đẹp và làm sao có được sự cảm ứng nơi các Ngài. Khi chúng ta đã tin sâu nhân quả rồi, nếu muốn có cây lành trái ngọt thì phải biết gieo nhân tốt và tạo các duyên thích hợp để nhân đó được phát triển và trổ quả lành.

Chúng ta muốn sống lâu thì phải không sát sinh hại vật, trước là không được giết người và hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật khác, hoặc dứt khoát không giết một vật nào. Thứ hai là phải có ý thức giữ gìn sức khỏe, siêng năng vận động, ăn uống tiết độ, làm việc có chừng mực và không vui chơi trác táng quá đáng. Chúng ta đã không giết hại mà còn phải biết bố thí, phóng sinh các loài vật khi tánh mạng của chúng bị đe dọa.

Muốn được giàu sang thì phải biết bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia mỗi khi cần thiết; kế đến là siêng năng cần mẫn trong công việc, tiết kiệm trong chi tiêu, không vui chơi hoang phí và trộm cướp lường gạt của người khác vì đó là nguyên nhân dẫn đến nghèo cùng khốn khổ.

Tóm lại, nếu chúng ta không biết gieo nhân lành và sống tốt với người khác thì khi gặp hoạn nạn ta không thể cầu chư Phật, Bồ-tát giúp cho mình tai qua nạn khỏi được. Nhân quả nhãn tiền có cầu tất có ứng là do nhân nhiều đời biết giúp người cứu vật, không có gì là đương nhiên khi không hoặc do đấng tối cao ban phước giáng họa cho ta.

Ngày nay, những tín ngưỡng dân gian với quá nhiều hình thức làm cho con người không biết rõ được bản chất thực hư của nó như giết hại loài vật cúng tế, mê tín dị đoan, ông lên bà xuống, cúng sao giải hạn và vô vàn các tập tục làm con người đánh mất chính mình vì không biết cách làm chủ bản thân. Nhan nhản khắp nơi trong các đình, chùa, miếu là hiện tượng xin bùa phát lộc để làm ăn phát đạt, dán tiền lên tượng Phật, Bồ-tát hoặc lấy tay xoa lên hình tượng rồi xoa vào thân mình và gọi đó là lộc của trời, Phật, Bồ-tát hay của đấng bề trên.

Khi đến chùa thì ta vái lạy, cầu khẩn, van xin đủ thứ chuyện. Ta chỉ cúng một ít tiền hay phẩm vật mà lại muốn Phật, Bồ-tát ban cho mình đủ thứ. Nếu những gì mình cầu xin mà được như ý thì luật nhân quả sẽ không còn tồn tại. Rõ ràng, từ con người cho đến muôn loài vật đều phải chịu sự chi phối của nhân quả, không có vật nào trên thế gian này thoát ngoài lý nhân quả.

Người không tu theo đạo Phật không tin lý nhân quả là lẽ đương nhiên. Nhưng đã là Phật tử mà ta còn mê tín dị đoan, lúc nào cũng cầu khẩn, van xin, mong muốn đủ thứ thì có xứng đáng là người Phật tử chân chính hay không?

Ông nhà giàu trong câu chuyện trên vì nhiều đời đã biết cúng chùa, làm phước, bố thí nên hiện đời mới được giàu có. Nhưng do thiếu tu nên càng giàu ông càng tham lam, bỏn sẻn, rồi lại nghĩ mình giàu sang là do các bậc hiền Thánh, Phật, Bồ tát ban cho.

Tuy nhiên, nếu chúng ta bố thí với tâm tham lam, ích kỷ, mong muốn việc bố thí sẽ giúp mình được giàu hơn thì dĩ nhiên phước vẫn có nhưng tâm tham đắm, dính mắc sẽ ngày càng nặng nên càng bố thí ta lại càng mê muội.

Những ai phóng sinh với tâm mong cầu, hám danh thì sẽ bỏ tiền mua một con vật nào đó rồi nhốt lại, chờ ngày có lễ trong chùa mới tụng kinh cầu nguyện, phóng sinh, mặc cho con vật thoi thóp trong chậu, trong lồng. Phóng sinh như vậy là vô tình đánh mất ý nghĩa phóng sinh, không phải vì lòng từ bi thương vật.

Phóng sinh đúng nghĩa là khi thấy con vật sắp bị con người giết hại thì vì lòng từ bi thương xót ta mua lại đem thả hay khuyên họ thả chúng. Phóng sinh như vậy mới đúng ý Phật, cách phóng sinh đó sẽ không làm người khác có cơ hội lợi dụng sinh lợi nhuận như những người mua bán chim cá trong các chùa.

Người Phật tử chân chính trước tiên phải nghiên cứu lời Phật dạy rồi sau đó suy ngẫm, quán chiếu và ứng dụng tu hành thì sẽ biết rõ mọi việc trên thế gian này đúng sai, phải quấy, tốt xấu, thật giả ra sao.

Chúng ta tin Phật ở đây là niềm tin chân chính sau khi phát sinh trí tuệ, nhờ vậy ta tin sâu nhân quả, tin chính mình làm chủ được bản thân. Do đó, ta thờ Phật, cúng Phật, lạy Phật là vì lòng cung kính, vì sự biết ơn nên cố gắng thực hành “phước huệ song tu” cho đến khi nào bằng Phật mới thôi.

PHẬT DẠY THÂN NGƯỜI KHÓ ĐƯỢC, PHẬT PHÁP KHÓ NGHE

Phật dạy “thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Câu này mới nghe qua chúng ta thấy hơi vô lý vì mình đã có thân người rồi, nhưng ở đây đức Phật ý nói thân tương lai chớ không phải thân hiện tại. Nếu sau này chúng ta chết đi, liệu ta có được tái sinh trở lại làm người hay không? Đó là thắc mắc của một số người. Chúng ta cần phải quán chiếu và suy nghiệm để tìm ra nguyên nhân vì sao Phật dạy như vậy.

Thường thì một số học thuyết thế gian cho rằng chết là hết, mọi thứ đều trở về với cát bụi, không có nhân quả nghiệp báo hay luân hồi tái sinh nên họ mặc tình làm việc xấu ác mà không sợ tội. Đức Phật do tu chứng nên thấy được cái vòng lẫn quẫn của con người, sau khi chết thân này sẽ hoại nhưng tâm thức vẫn còn và tiếp tục tái sinh vào cõi lành hay cõi dữ do thói quen đã gieo tạo.

Một đứa bé mới sinh ra chưa được ai dạy bảo điều gì nhưng đã có những sở thích riêng biệt, đứa thì hay la khóc, đứa thì thích đồ chơi, đứa thì ham ăn, đứa lại thích ngủ… Khi lớn lên được đi học và dạy dỗ như nhau nhưng có đứa giỏi toán, đứa giỏi văn, đứa giỏi vật lý… Vậy thì tại sao có sự khác biệt như thế?

Theo giáo lý nhà Phật chúng sinh sau khi chết sẽ tái sinh trong 3 cõi 6 đường, hay còn gọi là “lục đạo luân hồi”. Đó là cõi Trời, cõi Người, cõi A-tu-la, cõi Địa Ngục, cõi Súc Sinh và cõi Ngạ Quỷ. Riêng cõi Người và cõi Trời là những cõi lành dành cho chúng sinh biết giữ giới, tu 10 điều lành và ứng dụng tu tập Thiền định.

Chúng sinh sau khi mất đi được tái sinh chỗ tốt hay xấu tùy theo nghiệp báo đã gây trong hiện tại. Các nghiệp lực do ta tạo ra trong hiện đời sẽ đưa ta vào một trong 6 cõi luân hồi, điều này còn tùy thuộc vào cận tử nghiệp, tức là nghiệp lúc cận kề với cái chết. Người đang làm ác nhưng khi gần chết khởi tâm mạnh mẽ về những việc làm tốt sẽ có thể tái sinh đến cõi lành và ngược lại.

Đức Phật đã dạy: “Có hai loại người có thể tái sinh thẳng mà không cần phải qua giai đoạn thân trung ấm (tâm thức chờ tái sinh). Thứ nhất là loại người gây nhiều tội ác nặng như giết cha, giết mẹ, giết người tu hành chân chính, kích động thù hằn gây chiến tranh xâm lăng chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên, giết người bừa bãi bao gồm làm 10 điều ác thì sau khi chết bị đọa thẳng vào Địa Ngục không thông qua giai đoạn thân trung ấm. Loại người thứ hai là những người tạo nhiều thiện duyên, phước huệ song tu, từ-bi-hỷ-xả, làm lợi ích chúng sinh không biết mệt mỏi nhàm chán, tâm an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh nên đã vượt qua sống chết luân hồi, ứng biến vô ngại. Còn lại 6 đường luân hồi sau khi mất đi tùy theo thói quen huân tập mà có thể tái sinh vào cõi lành hay cõi dữ.

Để nói lên việc khó được làm người trở lại đức Phật dùng hình ảnh một con rùa mù ở dưới đáy biển, cứ một trăm năm rùa mới trồi lên mặt biển một lần để tìm cách chui đầu vào một cái lỗ của một khúc cây. Một con rùa mù một trăm năm mới nổi lên mặt biển để tìm cách chui đầu vào bọng cây quả thật là rất khó! Chúng ta được làm người trở lại cũng khó khăn như vậy bởi thế gian này ít ai giữ được 5 giới.

Nhiều người thắc mắc hiện nay dân số thế giới có khoảng trên 7 tỷ người, so với thời Phật ra đời thì con người đông hơn gấp mấy lần. Như vậy, Phật nói thân người khó được thì e rằng có sự nhầm lẫn. Chúng ta đọc kỹ các bản kinh thì thấy Phật đã nói trong bầu vũ trụ bao la này gồm có 3 cõi 6 đường luân hồi. Chư Thiên các cõi trời khi hết phước sẽ bị đọa xuống trần gian nên số lượng con người cứ tăng dần. Số lượng con người trong cõi thế gian này là con số chúng ta có thể thống kê được. Nhưng thử hỏi có ai thống kê được số lượng các loài súc sinh từ lớn đến nhỏ từ trên không, mặt đất và dưới nước? Chúng có vô số nên không thể tính đếm được thì rõ ràng thân người khó được trong tương lai là có lý.

Chúng ta hãy tưởng tượng xem, chỉ trong một ngôi làng nhỏ thì số lượng dân trong làng chúng ta có thể thống kê được, nhưng có bao nhiêu con trâu, bò, dê, chó, mèo, lợn, gà, vịt… Đó mới chỉ là các loài vật nuôi, còn vô số tổ kiến tổ ong và không biết bao nhiêu ruồi, muỗi, bọ, rệp, giun, dế…; chưa kể đến những loài dưới nước như các loại cá, ốc, lươn, cua, ba ba, tôm, chạch khác liệu chúng ta có thống kê được không?

Chúng ta thấy, trong rừng sâu, ngoài biển cả, trên bầu trời, cuộc sống quanh ta có vô số tỷ tỷ loài không thể nào tính đếm hết được. Rõ ràng là 3 cõi dưới do ngu si, mê muội nên các loài vật phải chịu nghiệp báo xấu, cho đến khi nào trả hết những quả xấu đó chúng mới được tái sinh làm người nhưng lại không có hiểu biết chân chính.

Tóm lại, số lượng 7 tỷ con người trong thế gian này thật là quá ít ỏi so với số lượng súc sinh hằng hà sa số không thể tính đếm được. Như vậy, trong lục đạo luân hồi quả thật được trở lại làm người vô cùng khó, nếu lỡ bị đọa vào đường súc sinh thì biết bao giờ mới trở lại làm người, người Phật tử chân chính cần phải hiểu rõ và thông suốt chỗ này. Vậy muốn được làm người trở lại chúng ta phải làm sao?

Phật dạy, muốn đời sau được trở lại làm người thì ngay đời này phải giữ tròn 5 điều đạo đức, hay còn gọi là 5 giới. Đó là không sát sinh hại vật, không gian tham trộm cướp, sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người, không uống rượu hoặc hút xì ke, ma túy, á phiện và đưa những chất độc hại vào trong cơ thể.

Giới thứ nhất không sát sinh hại vật thì trước tiên ta không được giết người dù tự tay giết hay dùng miệng xúi bảo người khác giết, hoặc thấy nghe giết nhau tâm sinh vui thích, hoan hỷ đồng tình. Làm như vậy là đã phạm giới sát sinh, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà bị quả báo tương xứng. Ngoài ra, chúng ta phải hạn chế tối đa không được giết hại từ các con vật lớn cho đến những con nhỏ nhít, phần này không bắt buộc đối với người tại gia nhưng ai giữ được trọn vẹn thì rất tốt.

Giới thứ hai ta không được gian tham trộm cướp. Trộm là lén lấy không cho người biết hay canh me, rình rập lấy. Cướp là công khai giành giựt, lấy trước mặt mọi người hoặc lợi dụng chức quyền để bóc lột người khác. Tội cướp so với tội ăn trộm nặng hơn gấp nhiều lần nên quả báo cũng nặng hơn.

Giới thứ ba ta không được tà dâm, tức là dan díu quan hệ với vợ chồng người khác. Chúng ta đã có gia đình rồi thì không được ngoại tình, lang chạ với người khác.

Giới thứ tư ta không được nói dối hại người. Nói dối là nói không đúng lẽ thật. Nói dối có hai động cơ chính. Động cơ thứ nhất do tham nên nói dối gạt người để lấy lợi về mình. Động cơ thứ hai do tâm ác độc nên người không phạm tội nhưng ta vu oan, vu khống họ để họ phải chịu tù đày khổ sở. Tóm lại, nói dối hại người vì lòng tham hay vì ác độc đều là phạm tội.

Giới thứ năm ta không được uống rượu say sưa, hút cần sa hay hút chích các thứ như xì ke, ma túy…

Đã làm người ai cũng quí trọng mạng sống của mình, cớ sao chúng ta lại muốn giết hại kẻ khác? Nếu chúng ta giết người thì mạng phải đền mạng, nhẹ thì bị tù từ năm mười năm cho đến chung thân, nặng thì chịu án tử hình. Đó là nói theo luật pháp thế gian, còn luật nhân quả sẽ theo ta như bóng với hình từ đời này sang đời khác để đền trả xứng đáng khi hội đủ nhân duyên.

Chúng ta biết quí trọng, gìn giữ tài sản của mình thì người khác cũng biết quí trọng, gìn giữ tài sản của họ. Nếu ta xâm phạm tài sản của người thì nhất định họ sẽ tìm cách lấy lại bằng nhiều thủ đoạn. Nhân trộm cướp lường gạt của người khác quả báo hiện đời bị tù tội, quả báo mai sau sẽ nghèo cùng, khốn khổ.

Chúng ta biết quí trọng hạnh phúc gia đình nên không muốn ai làm kẻ thứ ba, nếu có ta sẽ đau khổ vô cùng, có khi dẫn đến điên loạn hoặc vì quá ghen mà tìm cách giết hại. Ai hay theo dõi báo chí sẽ thấy rất nhiều vụ án xảy ra đều do không biết sống chung thủy một vợ một chồng.

Chúng ta muốn thông minh, sáng suốt và có trí tuệ nhưng lại uống nhiều rượu bia thì lâu ngày cũng sẽ bị đần độn, nếu quá mức sẽ dẫn đến bệnh thần kinh hay còn gọi là điên khùng. Hút cần sa, hút chích xì ke-ma túy làm cho mình cảm thấy đê mê như ở cõi tiên, đến khi thiếu chúng ta sẽ điên lên vì bị hành hạ, vật vã trong đau đớn. Có người vì chịu không nổi nên buộc lòng phải đi trộm cướp hoặc lường gạt của người khác để thỏa mãn thú vui ngu si này.

Phật khuyên người Phật tử chân chính giữ tròn 5 giới để được bảo đảm đời sau trở lại làm người có nhân cách đạo đức tốt. Nếu chúng ta hiện đời giữ tròn 5 giới thì hiện tại có ai dám khinh thường mình không hay còn khen ngợi mình nữa? Phật bảo ai giữ được 5 giới sẽ xứng đáng nhận danh hiệu làm người tốt trong hiện tại và mai sau. Ngược lại, những người phạm tội như ăn cắp hoặc cướp giựt của người khác trước tiên sẽ bị tù tội rồi sau đó bị mọi người coi thường, khinh chê, không dám gần gũi.

Chúng ta ai cũng muốn mình sống thọ và lại được giàu sang phú quý. Vừa sống dai mà lại có nhiều tiền của thì ta phải giữ trọn vẹn hai giới đầu là không giết hại và không trộm cướp. Nhiều người sống dai lại có tiền dư dả nhưng ngoại hình xấu xí, vậy muốn đẹp đẽ thì phải giữ giới không tà dâm và biết tiết chế trong tình dục.

Chúng ta được thân người vừa sống thọ lại giàu sang, đẹp đẽ mà bị cái tật nói năng khó nghe hay câm ngọng thì có ai muốn không? Chắc chắn là không rồi, cho nên chúng ta phải giữ giới không nói dối hại người thì đời sau nói năng lưu loát, được mọi nguời mến thương và tin kính.

Vậy còn đần độn hay ngu tối thì sao? Chúng ta phải tránh hiện đời uống rượu say sưa hoặc hút chích xì ke-ma túy thì sẽ không gieo nhân điên loạn hay mắc bệnh thần kinh.

Phật dạy thân người khó được nên chúng ta muốn đời sau được làm người toàn vẹn thì phải cố gắng giữ gìn 5 giới. Được như vậy thì chúng ta dám chắc chắn rằng mình sẽ là người tốt trong hiện tại và mai sau. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta được thân người nhưng mỗi người do tích lũy nghiệp khác nhau nên suy nghĩ, nói năng, làm việc của mỗi người không ai giống ai.

Trong thế gian này có được bao nhiêu người giữ tròn 5 giới. Chính vì thế, khi mất thân này phải rơi vào 3 đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh nhiều hơn được trở lại làm người là lẽ đương nhiên. Cho nên, Phật nói thân người rất khó được là vậy đó.

Người xưa nói:  

Ngàn năm cây sắt trổ hoa còn dễ,

Thân người nếu mất đi khó được lại.

Đây là một ẩn dụ sâu sắc nói lên ý nghĩa hiếm có, khó được. Cây sắt mà trổ hoa được thì vô lý quá! Tuy nhiên, cây sắt ngàn năm cũng có thể trổ bông, tái sinh lại thân người còn khó hơn nữa vì đại đa số con người ít ai giữ được 5 giới. Đây là một cảnh tỉnh giúp người tu chúng ta phải nhớ tỉnh giác trong từng phút giây mà cố gắng giữ tròn giới hạnh.

Chúng ta bây giờ được làm người là do nhiều kiếp trước mình có tu hành, giữ giới. Vậy mà có một số người lại tự hủy hoại thân này, hễ có chuyện gì buồn thì lại nghĩ đến cái chết bởi họ cho rằng chết là hết khổ. Đó là cái thấy biết sai lầm của người thiếu sáng suốt, họ không biết chết như vậy là phá hủy sự sống của chính mình, sẽ càng bị đọa vào chỗ tối tăm, bức bách, chịu nhiều đau khổ không có ngày thôi dứt.

Chúng ta thấy con trâu mỗi khi bị chủ tròng ách vô cổ bắt kéo xe thì nó rất ghét nên dùng cái sừng quật cái ách cho nó gãy đi. Nó đâu có ngờ làm gãy ách cũ thì ông chủ lại tròng cái mới còn chắc chắn hơn. Kiếp làm trâu là sống theo tập quán nghiệp, chừng nào trả hết nợ cũ thì mới hết nghiệp kéo xe.

Có được thân người mà còn được gặp Phật pháp thì đó là phước nhiều đời biết tu hành, giữ giới. Tuy nhiên, Phật pháp rất khó nghe. Vì sao vậy? Bởi có nhiều người cả đời không nghe đến hai chữ Phật pháp, hoặc có nghe Pháp nhưng lại không hiểu. Như chúng ta đã biết, Phật pháp chỉ nói lẽ thật, chỉ đúng lẽ thật nhưng lại trái nghịch với lòng tham lam, ích kỷ của con người nên khó tiếp nhận, khó nghe là vậy. Vì khó nghe nên người thiếu phước, ít duyên dù có cơ hội nghe Pháp họ cũng không hiểu gì. Chúng ta may mắn được gặp Phật pháp thì phải cố gắng học hỏi, khi nghe rồi ta phải quán chiếu, chiêm nghiệm và áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đó là tu.

Chúng ta phải học theo cách Phật dạy là “Tam huệ học”, tức là “văn, tư, tu”. “Văn” là nghe lời Phật dạy rồi suy nghĩ, quán chiếu, nghiệm xét để biết được thật-giả phân minh, đến khi đó ta mới hành trì bằng cách buông xả các tâm niệm xấu ác và sửa đổi những hành vi sai trái làm tổn hại người và vật.

Khi chúng ta đã biết cách phát huy tốt năng lực của bản thân, thấy được giá trị thiết thực là phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống thì chúng ta cần phải có trách nhiệm yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Tu theo đạo Phật không bắt buộc quý Phật tử nghe rồi tin liền mà khi nghe chúng ta phải quán chiếu, suy ngẫm, khi thấy biết đúng lẽ thật rồi mới tin và cố gắng thực hành theo. Đó là niềm tin chân chính sau khi phát sinh trí tuệ.

Đa số đàn ông nặng về nghiệp rượu chè, cờ bạc, đàn điếm. Còn bên nữ nặng nghiệp nói dối hay ganh ghét, tật đố. Nhiều người nữ buôn bán ngoài chợ than rằng không nói dối thì khó mua bán, họ có tật nói thách quá đáng nên khách trả kiểu nào cũng dính. Người Phật tử chân chính phải nói đúng giá để khách hàng tin tưởng lần sau còn đến mua tiếp và giới thiệu nhiều người tới mua. Nếu khéo biết tu ta vẫn làm ăn chân chính mà lại được lòng người nên sẽ mua may bán đắt. Phạm giới lâu ngày rồi sẽ trở thành thói quen xấu, ta sẽ nói dối vì quá tham lam, thà chấp nhận chịu lời ít một chút mà giữ được mối mua bán lâu dài.

Phật pháp rất khó nghe vì đi ngược lại với sự ham muốn của chính mình, mình tham mà Phật dạy phải bớt tham và dứt lìa tham, chẳng những không tham mà còn phải biết bố thí cúng dường, giúp đỡ người khác nữa. Tuy nhiên, người nào đã có tín tâm, tin sâu nhân quả tội phước thì sẽ tìm cách dứt ác làm lành để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Như quí Phật tử khi nghe pháp hay đọc kinh thì phải suy ngẫm, quán chiếu rồi mới ứng dụng tu hành. Tuy bước đầu thấy dường như khó nhưng sau này khi trí tuệ phát sinh ta sẽ biết cách hoàn thiện chính mình. Phật tử tại gia vì hoàn cảnh còn nhiều ràng buộc nên không thể tu được nhiều như Tăng Ni, chỉ cần cố gắng mỗi ngày làm một hai điều thiện cũng tốt rồi.

Khi nghe Phật dạy thân này sẽ già-bệnh-chết ai cũng biết thân sẽ bại hoại nhưng lại không chịu chuẩn bị hành trang. Chúng ta chờ khi thân sắp hoại rồi mới than trời trách đất “sao con khổ quá, trời Phật sao không linh hiển cứu con”. Trời Phật cứu làm sao được vì dù thân thuộc như cha mẹ, vợ chồng, con cái cũng đành phải chịu thôi.

Kinh Phật dạy: “Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm điều trong sạch, tội lỗi hay trong sạch đều do ta quyết định.” Người Phật tử chân chính sẽ biết chọn cho mình một hướng đi tốt đẹp. Chính chúng ta tự làm khổ mình chứ không ai khác giáng họa cho ta.

Phật nói cuộc đời là vô thường, mạng sống chỉ trong hơi thở, thở ra mà không thở vào coi như thân này tan hoại. Vậy mà ít ai chịu chấp nhận mạng người trong hơi thở, cứ nghĩ rằng đời người sống cả trăm năm. Thậm chí, nhiều người tìm luyện trường sinh bất tử nhưng có ai sống đời không chết. Thở ra mà không thở vào là chết ngay, đó là một lẽ thật mà ít ai chịu tin. Thế nên, Phật pháp khó nghe là vậy.

Chúng ta bây giờ đã có duyên gặp Phật pháp rồi thì phải ráng nghe những lẽ thật ấy để phá sự chấp trước lấy thân tâm mình làm ngã. Khi chúng ta thấy biết đúng như thật về thân và mạng sống thì sẽ giảm bớt mọi nhu cầu không cần thiết, nhờ vậy ta dễ dàng buông xả phiền não, khổ đau.

Khi biết thân người khó được, Phật pháp khó nghe ta càng phải cố gắng học hỏi và tu tập để ngày càng sống tốt hơn. Đó là chúng ta biết dùng thân này làm lợi ích cho mình và người khác. Nếu chúng ta chỉ lo ăn, mặc, ở sao cho đầy đủ, thoải mái thì đến khi gần đất xa trời không biết mình sẽ đi về đâu.

Gặp một đứa trẻ chạy chơi vấp té chúng ta đỡ bé lên và an ủi đôi lời, hành động này không tốn đồng xu cắc bạc nào mà còn gây được thiện cảm với đứa bé. Thấy một cụ già đang muốn qua đường mà không có người dìu dắt, chúng ta chỉ cần dắt tay giúp cụ qua đường. Hành động này không tốn tiền hao của, chỉ tốn chút công nhỏ nhoi mà giúp được cụ bớt lo lắng, sợ hãi.

Đối với ý nghĩ chúng ta lúc nào cũng khởi lên tâm niệm trong sáng. Miệng nói lời an ủi, sẻ chia giúp mọi người giảm bớt buồn phiền để sống vui vẻ hơn. Thân hành động giúp đỡ người khác mỗi khi có việc cần thiết không nề hà khó nhọc. Đó là chúng ta khéo dùng thân tạm bợ này để làm lợi ích cho người mà vẫn sống bình yên, hạnh phúc.

Tóm lại, là người Phật tử chân chính chúng ta luôn lắng nghe lời Phật dạy rồi sau đó quán chiếu, suy ngẫm để biết thật-giả rõ ràng nên việc tu sửa cũng nhẹ nhàng, không khó khăn gì. Kế đến, chúng ta vận dụng sự hiểu biết của mình để giúp nhiều người khác có được sự hiểu biết đúng đắn mà cùng nhau tu tập. Đó là ta biết ứng dụng lời Phật dạy vào đời sống hằng ngày để mình luôn làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích cho xã hội bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

PHẬT DẠY HÃY SỐNG NGAY GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Người đời thường nói niềm vui chóng qua còn nỗi buồn lưu dấu lâu dài, đó là một sự thật nhưng ít ai nghĩ đến. Con người ta thường hay tiếc nuối những cuộc vui đã qua và muốn giữ mãi hạnh phúc lâu dài nhưng lại không chịu gieo trồng phước đức. Đến khi việc đau buồn đến họ chới với, chơi vơi trong cô đơn, tuyệt vọng để rồi chấp nhận cuộc đời đen tối mà không biết tìm cách vượt qua.

Bộn bề với bao công việc cùng những thói quen cứ lặp đi lặp lại nhiều lần như chiếc đồng hồ đếm nhịp thời gian, sự sống này ai cũng muốn được tồn tại lâu dài nhưng dòng đời đâu cho phép. Bởi có sự sống là có chết chóc, có sum hợp thì có chia lìa, có được thì sẽ mất đi. Tất cả mọi thứ đều chịu sự chi phối của vô thường nên những điều mong muốn mà không được như ý sẽ làm chúng ta đau khổ. Sự sống có thể đem đến cho ta nhiều an vui, hạnh phúc. Song, cũng có những lúc chúng ta bất an, lo lắng trong mệt mỏi, chán chường mà dẫn đến tuyệt vọng.

Trong cuộc sống ai cũng phải ít nhiều gì đó từng cảm nhận sự đau đớn, khổ não do bệnh hoạn và tai nạn gây ra nơi thân tâm của chính mình. Chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nói đến những sự khổ về vật chất lẫn tinh thần bởi do nhiều nguyên nhân. Con người ta bắt đầu khổ từ lúc mới sinh ra vì những nghiệp duyên trong quá khứ tác động đến kiếp hiện tại.

Đức Phật chỉ dạy rằng cứu chữa cho tâm quan trọng hơn cho thân vì đó là nguyên nhân gây ra bao điều tội lỗi. Người có tâm từ bi rộng lớn và hành vi thiện lành thì tâm sẽ ít bị vẩn đục bởi phiền não tham-sân-si. Nếu chúng ta mỗi ngày tỉnh giác từng ý nghĩ, lời nói và hành động thì sẽ biết cách làm chủ bản thân để ngày càng hoàn thiện về mọi mặt.

Người có thân thể khỏe mạnh nhưng cứ để tâm tham lam, sân giận, si mê, ganh ghét, tật đố chi phối thì sẽ nhận quả đau khổ trong đời này và vô số kiếp về sau. Thân có bệnh làm đau nhức, khó chịu nhưng tâm bệnh làm ta dằn vặt, khổ sở não nề, có khi dẫn đến tuyệt vọng mà tự tử quyên sinh. Người biết tu tuy thân vẫn chịu sự đau đớn của bệnh hoạn nhưng tâm không bị khốn khổ vì đã thấu suốt được lý nhân quả.

Khi nhìn một vòng tròn chúng ta không thể tìm thấy điểm khởi đầu, nguồn gốc của vô minh cũng vậy. Các nhà khoa học đã đặt ra một số giả thuyết về nguồn gốc của trái đất và vũ trụ. Tuy nhiên, sự khởi đầu của tất cả mọi hiện tượng, sự vật trong bầu vũ trụ bao la này khó có học thuyết nào xác định rõ ràng. Riêng đạo Phật nhận định rằng “cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt” vì tất cả trùng trùng duyên khởi theo nguyên lý nhân duyên quả.

Quả báo tốt xấu chúng ta đang thọ nhận trong hiện tại là do nhân gây ra trước đó. Qủa báo này sẽ lại trở thành nhân cho quả tiếp theo tương tục từ đời này sang kiếp khác theo nguyên lý duyên khởi không có ngày cùng. Chúng ta sống là vừa thọ nhận quả vừa không ngừng tạo ra nhân mới tiếp nối. Rõ ràng, nhân quả xoay chuyển liên tục theo nguyên lý “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”.

Những khổ não bị tác động trong thực tế.

a- Môi trường:

Ngay nơi sự sống của chúng ta với bầu trời quang đãng, không khí trong lành vẫn có nhiều chất ô nhiễm hay mầm bệnh trong không khí do con người tạo ra vì lòng tham lam, ích kỷ. Môi trường là một nguyên nhân lớn làm ảnh hưởng đến đời sống con người.

b- Các mối liên hệ:

Các mối liên hệ trong cuộc sống có thể mang đến cho chúng ta nhiều phiền muộn, khổ đau. Vậy ai sẽ chịu trách nhiệm cho phần lớn những khổ não ấy? Số đông ai cũng nghĩ chính kẻ thù đã làm ta khổ não, tuy nhiên điều đó chỉ đúng một phần. Người có thể làm chúng ta khổ não chính là vợ chồng, con cái hoặc họ hàng, bạn bè hay đồng nghiệp của ta. Người khiến chúng ta bực bội, khó chịu lại chính là người thân thiết nhất của mình.

Hàng ngày, ta không chỉ phải đương đầu với gia đình, người thân mà còn bao nhiêu người khác, có người ta biết, có người ta không biết. Có người giúp đỡ ta, có người muốn cản trở ta. Vì thói quen của chúng sinh là tham lam, sân giận, si mê, ganh ghét, tật đố dẫn đến hiềm hận nên mới nói lời hằn học, khó chịu và sẵn sàng giết hại lẫn nhau không thương tiếc.

c- Xáo trộn cảm xúc:

Kẻ thù lớn nhất của chúng ta không phải là những kẻ đối đầu mà chính là chủ nghĩa cá nhân nơi mỗi người. Sự vọng động, phân biệt bởi ý thức hệ phần lớn là nguyên nhân khiến ta phiền muộn, khổ đau nhiều. Ta luôn thay đổi cảm xúc trong từng giây phút bởi những toan tính do chấp thân tâm này làm ngã. Ta hay lo lắng về được mất, phải trái, đúng sai, hơn thua, tốt xấu nên mới sinh ra tham lam, sân giận và si mê.

Khi tâm lý bị xáo trộn chúng ta hoang mang, lo sợ làm gia tăng thêm phiền muộn, khổ đau. Mỗi khi có sự cố xảy ra ta cần phải quán chiếu, tư duy sâu sắc thì mới đủ sức chuyển hóa tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ, từ bi. Khi bị tham lam, ích kỷ sai sử ta có thể quán sát như sau: “Tôi đang tham, tôi biết tôi đang tham, tôi biết có những ham muốn đang làm mờ tâm trí tôi”. Khi quán sát như vậy thì tự nhiên trạng thái tâm tham sẽ dần hồi biết mất.

Chúng ta hãy nhìn thẳng vào mọi diễn biến đang xảy ra như một thực tại nhiệm mầu. Hãy sống cho những giờ phút ngày hôm nay vì cái gì đến sẽ đến, dù ta không muốn chúng cũng xảy ra. Phật đã dạy: “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây.”

Đức Phật muốn nhắc nhở nhận thức và hiểu biết của chúng ta còn rất hạn hẹp, ta không nên cứ tiếc nuối quá khứ mà đánh mất chính mình trong hiện tại. Quá khứ đã qua rồi, chúng ta có muốn quay lại để nắm bắt nó cũng không được nên suy nghĩ, tiếc nuối về nó chỉ thêm phiền muộn. Tương lai thì còn ở chân trời xa tít, có ai biết nó sẽ ra sao mà mơ tưởng viễn vông. Ta chỉ nên tin nhân quả, biết buông xả những ý niệm đã qua để sống ngay với giây phút hiện tại. Khi ta tham, ta giận, ta si mê mình đều biết rõ, nhờ vậy ta sẽ cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng.

Nếu ta không biết chấp nhận hiện tại để sống bình thản, an nhiên với những được mất, hơn thua của dòng đời thì dung sắc của mình sẽ nhanh chóng héo tàn như lau xanh lìa cành. Một tinh thần giáo dục nhân bản mà Thế Tôn truyền dạy là tinh thần biết sống và bằng lòng với những gì mình đang có trong hiện tại. Phật dạy: “Không than việc đã qua, không mong việc sắp tới, sống ngay với hiện tại, do vậy sắc tốt tươi. Do mong việc sắp tới, do than việc đã qua, nên kẻ ngu héo mòn, như lau xanh lìa cành.

Với kiếp sống của con người mà chúng ta không có hiểu biết chân chính, không tin sâu nhân quả thì sẽ mãi than trời trách đất, oán ghét người thân, đổ thừa cho xã hội mà vô tình đánh mất chính mình.

Các nhà tâm lý phân tích rằng phần lớn các cảm xúc khổ đau đều do con người suy tưởng quá nhiều mà thất vọng bởi những chuyện bất như ý. Khi lỡ làm một điều gì lầm lỗi ta cảm thấy ân hận và hối tiếc. Điều đó sẽ làm cho ta càng bi thương, buồn khổ thêm. Do đó, chúng ta tốt nhất hãy xem xét lại mình đã làm gì và làm đúng hay sai. Nếu thực sự đó là một hành động làm tổn hại người khác thì ta hãy quán sát tâm mình để nhận thấy rõ ta đã hành động không đúng và cần phải ăn năn sám hối. Nhờ vậy, ta sẽ bớt phiền não, ân hận, ray rứt và tiếc nuối.

Chúng ta thường có ước muốn được phát triển và thành công trọn vẹn. Người có tâm lý này luôn muốn khoa trương cái mình có. Họ muốn chứng tỏ với mọi người về tầm ảnh hưởng của mình và muốn được nhân loại chú ý, quan tâm nên cố sức tạo danh thơm tiếng tốt để mọi người biết nhiều đến họ.

Thông thường, khi đạt được mục đích nào đó thì lòng tự mãn phát sinh. Thái độ tự mãn đó dễ làm cho ta khinh thường người khác. Người quá tự mãn về chính mình dễ xúc phạm đến người khác làm họ bực tức, khó chịu. Vì nén cơn giận trong lòng nên họ ôm mối hận chờ cơ hội trả đũa.

Khi không đạt được mục đích ta lại sinh tâm chán nản, mặc cảm, tự ti do không còn tự tin nơi bản thân. Những người như thế hay có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác. Chúng ta không nên bi quan, chán nản mà đánh mất chính mình. Hãy thay đổi tư duy và mọi chuyện sẽ dần hồi tươi sáng.

Trước tiên, chúng ta hãy tư duy về nhân quả. Đó là một thực tại thiết thực của cuộc sống. Chúng ta làm bất cứ điều gì cũng đều tuân theo quy luật nhân duyên quả. Dựa trên cơ sở nhân quả chúng ta tin rằng chết không phải là hết mà chỉ thay hình đổi dạng tùy theo nghiệp báo đã gieo trong hiện tại mà cho ra kết quả ở tương lai. Khi tin có kiếp sống luân hồi chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận những gì đến với mình dù tốt hay xấu. 

Tất cả các pháp sinh diệt đổi thay là do nhân duyên tích lũy cùng sự tương tác của nhiều yếu tố khác nhau theo nguyên lý cái này không thì cái kia không, cái này có thì cái kia có. Ví dụ, nhân của cây hoa là hạt giống, nhưng đất nước, ánh sáng, mặt trời và sự chăm sóc của con người là những yếu tố tác động đến sự sống của cây. Không đảm bảo đầy đủ các yếu tố trên cây sẽ khô héo rồi từ từ chết đi.

Khi chúng ta đạt được điều gì mong muốn thì không nên quá vui mừng, hoặc quá hãnh diện, tự hào. Ta nên biết rằng những gì hôm nay mình thực hiện được thì ngày nào đó cũng sẽ đổi thay, do đó ta không nên quá thất vọng khi đối mặt với những chướng duyên, nghịch cảnh. Khi tâm có sự định tĩnh, sáng suốt sẽ giúp ta dễ dàng buông xả các tâm niệm xấu ác.

Ai cũng muốn mọi người đối xử tốt với mình nhưng lại ít khi nghĩ đến việc giúp đỡ, sẽ chia cùng người khác. Có nhiều người khi lầm lỗi thì đòi hỏi được tha thứ, nhưng khi thấy người khác làm lỗi thì họ chẳng những không tha thứ mà còn phê phán, chỉ trích mạnh mẽ.

Chúng ta muốn được an nhiên, tự tại trong mọi hoàn cảnh thì cần phải thể nhập tâm thanh tịnh, sáng suốt. Khi được như thế ta mới có thể từ bi, đồng cảm, tha thứ và biết quan tâm đến người khác với tinh thần không vụ lợi.

Phật dạy:"Quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy sống trong giây phút hiện tại". Nếu ta quá ưu tư tiếc nuối về quá khứ, hay lo nghĩ mơ mộng về tương lai rồi luôn hoang mang, lo sợ thì sẽ đánh mất mình trong hiện tại bởi được mất, hơn thua, thành công hay thất bại.

PHẬT DẠY CÁCH SỐNG CHUNG VỚI NGƯỜI KHÓ CHỊU

Trong cuộc sống ai cũng có thể đã từng gặp phải những chuyện đau thương, khốn đốn dẫn đến bực bội, khó chịu, phiền muộn, khổ đau. Những người khó chịu họ luôn muốn làm mọi chuyện trở nên căng thẳng để tạo ra sự hiểu lầm hoặc mối thù hiềm bằng nhiều hình thức khác nhau. Người khó chịu là người hay kiếm chuyện gây gổ làm người khác luôn bực tức và phiền não, bức bách.

Sự đụng chạm giữa con cái đối với cha mẹ, giữa vợ chồng, anh em, bạn bè và đồng nghiệp khiến chúng ta đau buồn, do không thể kiềm chế bản thân nên ta dễ dàng trút những phiền muộn lên người khác. Khi trong ta trỗi dậy những cảm xúc khổ đau thì mình dễ dàng bươi móc lỗi của người và công khai chỉ trích những sai phạm của họ trước mặt bàn dân thiên hạ.

Trong cuộc sống chúng ta ai cũng có thể đóng vai trò của một người khó chịu, bởi đã làm người thì chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, sai lầm dễ khiến người khác phiền muộn, đau khổ. Bây giờ, chúng ta sẽ liệt kê ra một vài loại người khó chịu.

Có một loại người rất khó chịu vì cuồng tín, họ tin vào đấng bề trên nên có thể giết người vô tội vạ vì cho rằng chết vì đạo sẽ được lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao. Phụ nữ đối với họ chỉ là vật phụ thuộc có nhiệm vụ sinh con đẻ cái và đáp ứng nhu cầu sung sướng cho họ. Dạng người khó chịu này không chấp nhận ai mà chỉ tôn thờ đấng bề trên và muốn mọi người phải tin theo họ. Nếu nắm quyền hành trong tay họ không cho ta lựa chọn nào khác mà chỉ có thể theo thì sống, không theo thì chết.

Một loại người nữa cho rằng chết là hết, không có nhân quả nghiệp báo nên khi sống họ mặc tình tạo tác gây ra nhiều nỗi khổ, niềm đau vì quan niệm mọi thứ sẽ trở về cát bụi. Tuy nhiên, dạng người khó chịu này nếu có ý thức một chút sẽ là những công thần dấn thân hy sinh cho sự nghiệp chung và sống trung thành với lý tưởng đó. Người khó chịu theo dạng này nếu không có hiểu biết chân chính sẽ không chấp nhận học thuyết sống chết luân hồi tùy theo nghiệp báo tốt xấu đã gieo. Họ cho rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân loại nên dẫn đến nhiều sai lầm đáng trách làm tổn hại cho nhiều người.

Một loại người khó chịu khác suốt đời mong muốn, đòi hỏi ai cũng phải là một người hoàn hảo, không sai phạm nên họ rất khó chịu khi thấy người khác phạm phải lỗi lầm. Người khó chịu theo dạng này luôn muốn mọi người cùng theo một khuôn mẫu với mình, ai làm khác đi thì lại khó chịu. Họ không hiểu quy luật duyên sinh, nhân quả và sự huân tập của mỗi người khác nhau nên có sự sai biệt. Đó là sự chấp trước chỉ thấy mình là người tốt còn mọi người đều xấu nên cuối cùng họ bất mãn và rơi vào tuyệt vọng, không muốn chung sống với mọi người.

Một loại người khó chịu khác vì đang gặp hoàn cảnh bất hạnh không tìm ra lối thoát như bệnh nan y, gia đình đổ vỡ, vợ chồng phản bội, con cái chết chóc, sự nghiệp trắng tay… Những người khó chịu này là hạng người đang bị dính mắc bởi phiền não tham-sân-si vì chấp thân tâm này làm ngã nên muốn chiếm hữu mọi thứ, chẳng hạn như những ông vua thời phong kiến. Đó là nói về người khó chịu thời xa xưa.

Người khó chịu thời nay còn tinh vi hơn nữa như lãnh tụ các cường quốc đã lợi dụng khoa học tiến bộ để chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên của các nước chậm tiến bộ và lạc hậu. Họ thường tự xưng mình là người trị vì thiên hạ, vì không chịu khuất phục họ, theo họ hoặc có thái độ không bằng lòng với họ thì họ tìm cách triệt buộc ngay. Lịch sử thế giới loài người đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Thế giới ngày hôm nay sở dĩ chiến tranh binh đao tàn sát, giết hại lẫn nhau là bởi do những người khó chịu này.

Người không có hiểu biết chân chính, không tin tâm mình là Phật, không tin mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc họ sống để tham lam, ích kỷ, giành giựt, chiếm đoạt để có được nhiều hơn. Bất kể mọi người khổ đau như thế nào họ không cần biết, họ chỉ biết rằng họ được ăn trên ngồi trước và nắm quyền sinh sát trong tay. Họ cho rằng đó là ân sủng thượng đế dành cho họ. Cuộc sống của họ luôn tạo ra nỗi khổ, niềm đau cho mọi người vì quan niệm sai lầm có một thần linh, thượng đế ban phước giáng họa, sắp đặt mọi việc.

Nắm lấy, kéo về mình, cất giữ, chất chứa là một thói quen xấu do ngu si chấp ngã thấy mình là trung tâm của vũ trụ. Con người ngay từ nhỏ khi mới chập chững biết bò đã luôn cố trườn tới để nắm lấy những đồ vật trước mắt. Nếu nắm lấy được thì bỏ vào miệng không phân biệt sạch dơ. Lớn lên, chúng ta nắm bắt, chấp giữ và càng khó chịu nhiều hơn khi thấy mình bị thiệt thòi hơn người khác.

Do chấp ngã nên chúng ta cố nắm lấy, bám giữ, tiếc nuối rồi cảm thấy bực bội, khó chịu và nổi tam bành lục tặc để làm người khác đau khổ. Khi cái ta lớn mạnh mà không được hài lòng, vừa ý thì sự thất vọng càng nhiều nên phiền muộn, khổ đau không có ngày thôi dứt.

Chúng ta cần phải hiểu rõ không nắm giữ không có nghĩa là không có gì hết, không có cả một cái chén để ăn cơm. Chúng ta vẫn cầm cái ly để uống nước nhưng chúng ta không dính mắc vào nó, nếu lỡ làm bể cái ly chúng ta vẫn không tiếc rẻ, bực tức hay nổi giận, cáu gắt hoặc mắng chửi, đánh đập người khác.

Chấp là nguồn gốc sinh ra mọi hệ lụy khổ đau cho con người dù đó là chấp thiện. Chúng ta không thể muốn mọi người phải giống như mình, càng không thể dùng áp lực để buộc họ phải thay đổi. Cách duy nhất chúng ta có thể giúp họ là hãy nhìn lại chính mình, nhận thức rõ năng lực bản thân để có sự cảm thông, bao dung và tha thứ mà thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.

Chúng ta hãy cảm thông cho người khó chịu vì họ không làm chủ được bản thân nên đang đau khổ tột cùng. Vào những lúc như thế họ sẽ trút đổ mọi bực tức, giận hờn lên người khác. Thậm chí, họ có thể thượng chân hạ cẳng mà tạo ra nỗi khổ, niềm đau cho chính gia đình họ.

Người khó chịu không biết cách kiềm chế nên họ lại thêm dầu vào lửa khiến cho sự việc càng thêm oan trái. Họ đang trong cơn tuyệt vọng nên rất dễ giận cá chém thớt và rất cần có sự giúp đỡ. Nếu quán chiếu sâu sắc chúng ta sẽ thấy họ đang bế tắc trong cơn đau khổ tột cùng không có lối thoát nên ta càng phải thương xót họ nhiều hơn. Trong lúc này, dù họ có cố gắng kiềm chế bằng nhiều cách thì lời nói của họ khi phát ra cũng giống như dao bén cứa vào từng thớ thịt của người khác.

Nếu chúng ta phải đối diện với người khó chịu thường xuyên mà không khuyên được họ thì nên tìm cách tránh xa họ vì “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Nhưng vì duyên sự mà phải gặp họ, phải tiếp xúc với họ thì ta phải làm sao? Ta phải học cách chấp nhận để đương đầu với hoàn cảnh không như ý này.

Chúng ta sẽ thấy mình đang rơi vào hoàn cảnh éo le, ta sẽ bị phê bình, chỉ trích nặng lời bởi người khó chịu kia, ngay lúc này nếu ta không tỉnh giác thì mọi thứ sẽ đổ vỡ. Nhờ tỉnh giác trong từng phút giây chúng ta biết mình đang đối diện với lửa sân hận nên ta bình tĩnh, an nhiên tìm ra lối thoát.

Chúng ta dùng tuệ giác của Thế tôn để soi sáng lại chính mình mà có sự cảm thông và tha thứ cho họ. Chúng ta hãy quán sát thân này nhân duyên hòa hợp giả có nên không có thật. Cái gì là ta, là của ta, ta không chấp thân tâm này làm ngã thì chẳng có thứ gì làm cho ta lay động mà phiền muộn, khổ đau.

Khi đối diện với người khó chịu mình phải biết cách lắng nghe để tìm ra nguyên nhân giúp họ. Họ đang nói gì, đang muốn gì, đang tiếc nuối về quá khứ hay mơ mộng đến tương lai mà đánh mất mình trong hiện tại? Vào những lúc căng thẳng như thế chúng ta phải dùng trí tuệ thấy biết đúng như thật để lắng nghe tâm tư của họ, phải nhìn vào mặt tích cực của họ. Họ đang muốn giải tỏa hết mọi áp lực từ bên ngoài đang đè nặng lên tâm thức họ. Bằng sự cảm thông, bao dung và độ lượng, chúng ta cần phải giúp họ quay trở về với thực tại, đừng vì tình cảm sâu nặng mà tự đánh mất chính mình. Đây cũng là một cơ hội tốt để ta nhận thức rõ thành quả tu tập từ bấy lâu nay bằng tuệ giác của Như Lai. Khi nghĩ tốt cho người ta sẽ bớt tâm ganh ghét, tật đố mà không chỉ trích quá đáng, sai lầm  về họ. 

Ngày xưa, một vị Tổ sư đã dùng phương tiện thiện xảo để chỉ dạy cho đệ tử của mình. Ông lấy một ly nhỏ đầy muối rồi chế nước vào khuấy đều bảo người đệ tử uống. Người đệ tử vừa nhấp thử ngụm nước đã nhăn mặt nói nước mặn đắng, không thể uống được. Vị thầy bình thản lấy thêm một nắm muối khác cũng bằng với số muối trước bỏ vào hồ nước khuấy đều rồi bảo người đệ tử nếm thử. Lần này, người đệ tử nếm thử mà không cảm thấy khó chịu vì sự mặn đắng nữa.

Bấy giờ, vị thầy mới từ tốn nói tiếp: “Sự đau khổ tột cùng giống như người uống đầy ly nước muối mặn. Tuy nhiên, nếu ta biết khôn ngoan, sáng suốt hành trì theo lời Phật dạy, biết giữ giới, thiền định và từ bi thì cũng giống như ta dùng lượng muối đó pha vào một hồ nước. Vị mặn của muối bị nước hòa tan nên ta vẫn uống bình thường mà không cảm thấy khó chịu bởi vị mặn đắng của nó. Chính vì vậy, mỗi khi gặp điều không được hài lòng như ý chúng ta hãy mở rộng lòng ra bằng tâm từ bi và trí tuệ để soi sáng lại chính mình thì mọi việc phải quấy, tốt xấu, đúng sai, được mất, hơn thua đều có thể tan hòa vào hư không.”

Nói tóm lại, tất cả những người khó chịu dù bất cứ hình thức nào đều do sự chấp ngã thân tâm này là tôi, là ta nên thấy thân này là thật, thấy tâm suy tư nghĩ tưởng cũng là mình nên từ đó họ đấu tranh giành giựt, chiếm đoạt dẫn đến tàn sát, giết hại lẫn nhau không thương tiếc.

Theo lời Phật dạy, có một phương pháp giúp người khó chịu chuyển hóa được. Vì sao chúng ta hay làm người khó chịu? Vì chúng ta không có lòng từ bi rộng lớn. “Từ” là ban vui, “bi” là cứu khổ. Muốn chuyển hóa được tính khó chịu ta phải quán tình thương và biết cảm thông, tha thứ. Khi thương yêu, kính mến ai ta sẽ không bao giờ khó chịu với họ. Tình thương yêu chân thật thường đi đôi với tâm từ bi, tức là ban vui và cứu khổ.

Khi có được một trái tim thương yêu và hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống thì tâm ta sẽ dễ dàng trải rộng ra để giúp đỡ người khác và sẽ không buồn giận khi người đó vô ơn. Mỗi lần thấy một người khó chịu ta tự cảm thấy mình cần phải làm điều gì đó để giúp người ấy có đủ năng lượng thiết lập lại bình yên, hạnh phúc.

Một người nọ thấy con bò cạp sắp chết đuối trong một vũng nước thì vì muốn cứu nó nên nhanh nhẹn đưa tay ra vớt và đặt nó vào chỗ an toàn, nhưng con bò cạp liền chích ông ta một phát đau điếng. Tuy nhiên, vì muốn qua đường nên nó đi tiếp và cuối cùng lại lọt vào vũng nước khác. Lần này, thấy nó sắp chết đuối ông lại vớt nó lên và cũng bị nó chích như lần trước. Tay ông lúc này sưng vù và đau điếng.

Một người khác chứng kiến cảnh tượng đó từ đầu đến cuối bèn nói: “Tại sao ông lại dại khờ đến thế? Ông thật là điên rồ khi cứu vớt một con bò cạp chẳng biết ơn nghĩa là gì.” Người đàn ông vui vẻ trả lời: “Thưa ông, tôi không thể nhìn thấy cảnh con bò cạp bị chết đuối. Ông biết đó, thói quen và bản tính của con bò cạp là chích khi có người đụng vào. Đó là phản ứng tự vệ của nó, nó chỉ sống theo tập khí, thói quen mà không có sự quán chiếu. Còn thói quen của tôi là sẵn sàng cứu giúp khi có nhân duyên, tôi thà chịu đau một chút mà cứu được con bò cạp.”

Trong trường hợp này, nếu suy luận chúng ta sẽ thấy người đàn ông đó có thể lấy một cành cây để vớt con bò cạp thì sẽ không bị chích. Nhưng vì ở đây ông ta nghĩ cứu một con bò cạp trong cơn hoạn nạn là điều cần thiết, hậu quả như thế nào ông sẽ tính sau.

Câu chuyện này ngụ ý nói lên tâm từ bi rộng lớn của người đàn ông nọ khi muốn cứu một sinh mạng khác dù đó chỉ là một con vật thấp kém. Điều này cho chúng ta thấy người có tấm lòng rộng mở khi giúp người-vật trong cơn nguy khốn sẽ không có sự tính toán vì ta, người, chúng sinh. Đức tính của ông ta là luôn giúp đỡ, sẻ chia bằng tình người trong cuộc sống với trái tim thương yêu và hiểu biết.

Do đó, khi có được tình thương yêu rộng lớn thúc đẩy chúng ta sẵn sàng giúp đỡ người khác bất kể màu da, tôn giáo, chủng tộc. Nếu chúng ta ai cũng biết nuôi dưỡng tình thương yêu chân thật bằng sự quán chiếu hằng ngày ta sẽ thấy người và vật không có ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Nhờ vậy, khi sống chung với người khó chịu ta vẫn bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

LỜI PHẬT DẠY TU TRONG MỌI HOÀN CẢNH

Tu trong lúc làm việc bận rộn

Trong cuộc sống, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào ta cũng phải biết tu nhân tích đức để ngày càng hoàn thiện chính mình. Nhiều người nghĩ rằng tu là dành riêng cho người xuất gia hoặc những kẻ rảnh rang nhàn hạ, người thừa tiền nhiều của; còn mình làm lụng vất vả nhọc nhằn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, cuộc sống thiếu thốn khó khăn thì thời giờ đâu mà tu. Hoặc có nhiều người nghĩ tu là việc của những người già, kẻ bất hạnh bần cùng, cô nhi quả phụ, bệnh tật bẩm sinh…; còn ta nhiều tiền lắm của, con đông cháu đầy, quyền cao chức trọng thì tu để làm gì.

Bởi có những quan niệm như vậy nên một số người nghĩ tu làm chi cho khổ, sống vui chơi hưởng thụ không sướng hơn sao. Họ đâu biết rằng nếu chúng ta biết tu thì thế gian sẽ giảm bớt tệ nạn xã hội, con người sẽ đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống với tấm lòng vô ngã, vị tha.

Thế giới loài người có rất nhiều tôn giáo, học thuyết chính trị với những triết lý khác nhau. Nếu chúng ta không biết lựa chọn con đường tốt đẹp thì sẽ rơi vào chỗ tối tăm, mờ mịt. Một số người nói rằng tôn giáo nào cũng tốt, nói như vậy là không đúng. Tôn giáo nào hướng dẫn cho ta biết cách làm chủ bản thân, tin sâu nhân quả, không sát sinh hại vật và thương yêu bình đẳng mọi người mới thật sự là tôn giáo tốt.

Con người lúc nào cũng khởi lên tâm niệm tốt xấu lẫn lộn, nếu chúng ta mặc tình thả trôi theo những tâm niệm xấu ác thì sẽ gây ra đau khổ cho nhiều người. Để hạn chế tâm niệm xấu ác chúng ta phải mở rộng tấm lòng từ bi rộng lớn nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Nếu khéo tu niệm xấu sẽ dần hồi giảm bớt, niệm tốt sẽ tăng trưởng theo thời gian, nhờ vậy ta sẽ ngày càng hoàn thiện và luôn làm tròn bổn phận đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Nhiều người vì bận lo kế sinh nhai nên tất bật từ sáng sớm đến chiều tối, về đến nhà thì trời đã tối nên còn thì giờ đâu mà tu. Nếu chúng ta khuyên họ phải tụng kinh, sám hối, ngổi thiền thì chắc chắn họ không thể làm được. Nhưng nói như vậy thì những người bộn bề công việc sẽ không tu được sao?

Ta phải hiểu rằng, tu ở đây là buông xả ý nghĩ xấu ác làm tổn thương người và vật, biết nuôi dưỡng những ý nghĩ tốt đẹp để cùng thương yêu san sẻ, giúp đỡ lẫn nhau. Tu là chuyển lời nói hung dữ, ác độc thành lời nói hiền hòa, ái kính, dừng ngay những hành động xấu ác làm tổn thương người khác, tạo những hành động thiện ích để cùng san sẻ với mọi người. Như vậy, dù trong bộn bề công việc chúng ta vẫn có thể tu được.

Trong lúc làm việc cũng thế, ta làm việc nào chỉ biết việc đó, chỉ chú tâm vào công việc mình đang làm. Từ anh giám đốc cho đến cán bộ công nhân viên, tất cả đều phải chú tâm vào công việc của mình. Giám đốc sau khi phân công, điều hành xong thì làm nhiệm vụ theo dõi, giám sát để kịp thời giải quyết những khó khăn, bất trắc. Người kế toán chú tâm vào việc đánh máy nên tính toán chính xác, không sai con số. Chị lao công quét dọn chỉ chú tâm vào công việc sẽ nhìn thấy rõ chỗ nào dơ sạch mà lau chùi kỹ càng. Anh bảo vệ thường quán sát người ra vào cơ quan nên biết rõ từng người một, do đó kiểm soát và quản lý chặt chẽ mọi vấn đề. Và tất cả mọi ban nghành đoàn thể, cứ như thế mỗi người đều có trách nhiệm riêng và chỉ chú tâm vào công việc được giao để hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhờ vậy năng suất lao động nâng cao và công việc được hoàn thành đúng thời gian hoặc trước thời hạn.

Tu trong công việc là điều kiện cần thiết mà ai cũng phải ý thức rõ, nhờ chú tâm quan sát rõ ràng nên ta làm việc ít thấy mệt mỏi và không bị thời gian chi phối. Nếu trong công việc ta không biết tập trung sẽ lãng phí thời gian làm thiệt hại cho cơ quan.

Tu trong bộn bề công việc sẽ giúp ta biết cách hóa giải được nhiều thứ bằng kinh nghiệm của bản thân, từ đó ta dễ dàng kiểm soát tâm bất chính phát sinh mà làm tròn trách nhiệm được giao.

Nhiều người không biết nên hay phàn nàn được ở yên trong chùa mới là tu, hoặc ở thâm sơn cùng cốc không có ai mới là tu, hay được nhập thất ở yên một chỗ mới là tu… Nếu chúng ta ai cũng muốn tu như vậy thì xã hội này sẽ bị phế bỏ vì không có ai làm việc, đóng góp nên lấy gì ăn để mà sinh sống. Quan niệm đó chỉ phù hợp với một số người đã già nên mất sức lao động, hoặc dư tiền của để sống, hay chán cảnh phồn hoa phố thị, đua chen giành giựt…

Tu trong lúc mua bán

Người mua bán ngoài chợ cũng phải biết cách tu, trước tiên là ăn nói nhỏ nhẹ, hài hòa, dễ nghe. Khi khách đến không nên nói thách quá, tốt nhất nên nói đúng giá, nếu khách không mua hay trả giá quá thấp cũng nên vui vẻ, cởi mở, đừng nên tỏ thái độ cằn nhằn, bực tức. Nhiều người vì mê tín nên sáng sớm khách mở hàng mà không mua thì đốt phông lông, la ó, chửi rủa um sùm, bán buôn như vậy dần hồi sẽ mất hết khách hàng.

Cuộc sống này vốn thuận mua vừa bán chớ không có gì bắt buộc, người biết tu trong lúc mua bán sẽ biết cách thu hút khách hàng, giữ mối quan hệ mua bán lâu dài nên được nhiều người ưa thích.

Thật ra, chính khi buôn bán làm ăn mà chúng ta có ý nghĩ tốt nên thốt lên lời nói hiền hòa, có thái độ vui vẻ chân thành khiến khách hàng mến thương. Do đó, người đến mua hàng ngày càng đông nên việc mua bán dễ phát đạt.

Một ví dụ điển hình như món hàng đó giá 2000 đồng nhưng khách trả giá chỉ có 1000 ngàn đồng, trả giá như vậy thì làm sao bán? Trong trường hợp này nếu người bán hàng không biết tu sẽ dễ nói lời cộc cằn, thô lỗ làm mất lòng người khách.

Ngược lại, người bán hàng khéo tu chỉ cần vui vẻ nói nhẹ nhàng: “Chị thông cảm, chị trả giá chưa đủ vốn nên em không bán được. Chị tới chỗ khác hỏi thử, nếu bằng giá em bán thì chị quay lại mua giúp em, em cám ơn chị nhiều.” Chúng ta nói như vậy thì mọi việc sẽ êm ái, nghe xuôi tai mà không ai thiệt thòi gì mà còn giữ được mối quan hệ lâu dài trong mua bán.

Trước những điều không được hài lòng như ý chúng ta biết kiềm chế sự nóng giận, nói năng nhỏ nhẹ, lựa lời ôn hòa để giải thích với khách hàng thì đó là ta khéo tu giữa chốn đông người. Ở giữa chợ đời không khi nào ta có thể làm vừa lòng hết thiên hạ với đủ thứ chuyện xảy ra mỗi ngày. Nếu ta không biết tu trong lúc mua bán thì mọi việc sẽ đổ vỡ. Chính vì thế, người xưa nói “nhất tu chợ, nhì tu chùa, ba tu núi” là vì vậy.

Tóm lại, mua bán ngoài chợ phải giữ giới không nói dối, không nói lời hằn học khó nghe, huống hồ là nói lời mắng chửi mà còn phải nói lời ái ngữ nhẹ nhàng. Đó là người biết tu trong chốn đông người.

Tu trong lúc làm ruộng rẫy

Người làm ruộng, trồng hoa màu để cung cấp thức ăn, thực phẩm cho con người cũng phải biết tu. Do phải trải qua nhiều công đoạn từ khâu gieo giống, chăm sóc, cày cuốc, tưới tẩm đến bón phân theo đúng quy trình nên nếu chậm thời gian sẽ không có kết quả tốt, do đó cần phải chú tâm vào công việc để dễ dàng quán sát chặt chẽ, nhờ vậy tính toán làm việc theo đúng quy trình thời gian cho phép.

Người nông dân làm ruộng khi vác cuốc ra đồng phải luôn suy nghĩ “siêng năng, cần mẫn làm đúng kỹ thuật để lúa được trúng mùa mà có cơm ăn cho gia đình, nếu có dư thì chia sẻ cho người khác”. Người nông dân trong lúc cuốc đất, nhổ cỏ, gieo mạ, bón phân cần tập trung và khởi lên ý nghĩ lành, làm việc nào biết việc đó, như vậy là đang tu. Thấy thửa ruộng bên cạnh tốt hơn ruộng của mình thì không sanh tâm đố kỵ mà vui vẻ chúc mừng họ được mùa lúa bội thu và gia đình được cơm no áo ấm. Nhờ vậy, ta không ganh ghét, tật đố nên không bực tức, buồn phiền. Đó là ta khéo biết tu.

Người biết cách tu lúc làm ruộng sẽ ý thức được không nên dùng nhiều hoá chất mà chỉ dùng theo liều lượng cho phép, nhờ vậy hoa màu đến tay người tiêu dùng không bị ảnh hưởng xấu từ các chất độc hại. Nhiều người vì lòng tham lam quá đáng muốn lợi nhuận cao nên bị đồng tiền làm mờ mắt, chiều nay họ xịt thuốc dưỡng mà sáng mai lại đem đi bán liền nên người ăn dễ bị ngộ độc. Người thời nay bệnh hoạn nhiều cũng do con người không biết tin sâu nhân quả, chỉ biết lợi trước mắt cho chính mình mà làm tổn hại rất nhiều người khác.

Trong lúc ta đang nhổ cỏ, bón phân, tưới tẩm cho hoa màu mà khởi tâm niệm xấu làm xao lãng việc làm thì liền quay lại chính mình bằng cách khởi những niệm thiện, nhờ vậy đem lại kết quả tốt đẹp. Đó là ta đang tu.

Tu trong lúc đi học

Trước tiên chúng ta sẽ nói về việc tu của các em đang bận rộn chuyện học hành, thi cử, nếu biết cách tu các em sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp. Khi cắp sách đến trường các em phải quan niệm rằng, “ta cố gắng học cho giỏi để sau này trả ơn cha mẹ, có sự nghiệp và tương lai để làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình, người thân, đóng góp lợi ích cho xã hội và hoàn thiện chính mình. Đó là suy nghĩ của người học trò khéo tu.

Muốn tương lai nên sự nghiệp thì ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường các bạn trẻ phải chú tâm vào việc học để tiếp thu nền kiến thức phong phú và đa dạng bằng sự hiểu biết chân chính. Học không có nghĩa là chỉ cần cắp sách đến trường và đọc nhiều sách vở, hay học được một nghề thật giỏi và kiếm thật nhiều tiền để hưởng thụ. Mục đích của việc học là để thành người với đúng ý nghĩa của nó, tức là một con người hoàn thiện về mọi mặt, vừa tài giỏi lại có nhân cách đạo đức, luôn làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, người thân và dấn thân đóng góp lợi ích cho xã hội.

Trước tiên, học là noi gương sáng của các bậc tiền nhân, vĩ nhân, tức là chúng ta bắt chước những việc làm ích nước lợi dân mà các bậc tiền bối xưa đã làm. Chúng ta học để phân biệt được phải trái, tốt xấu, đúng sai, hơn thua, thật giả. Thấy điều tốt đẹp ta phải bắt chước làm theo. Thấy điều xấu ác làm tổn hại đến mình và người thì ta tìm cách tránh xa, hoặc không a dua theo. Người khôn ngoan sáng suốt là người biết học để tiếp thu cái tốt và loại bỏ cái xấu. Đó là ta biết cách tu.

Từ những hiểu biết căn bản qua việc học trên ghế nhà trường thì gia đình là môi trường trực tiếp dạy bảo các em về đạo lý làm người. Chúng ta không thể chỉ học lý thuyết suông mà cần phải tìm tòi, nghiên cứu, suy diễn, nghiệm xét và biết phân biệt tốt xấu, đúng sai. Chúng ta đừng quá tin vào sách vở mà hãy học cách suy ngẫm để tìm ra bản chất thật của nó rồi mới áp dụng vào cuộc sống hằng ngày.

Ngoài ra, chúng ta phải cố gắng và có quyết tâm cao độ trong học hỏi thì mới mong đạt được kết quả tốt đẹp ở tương lai, phải có sự cố gắng học hỏi như thế ngay khi còn nhỏ thì các bậc cha mẹ mới có thể đem hết khả năng và những gì biết được để dạy dỗ con em hầu giúp chúng có ý thức trong việc học mà không phụ lòng cha mẹ.

Các em học sinh hãy nên nhớ rằng, nếu chúng ta không có ý chí tự lập thì sau này khó có cơ hội thành công. Những người như vậy dù cha mẹ có cố gắng quan tâm, lo lắng và giúp đỡ thì cũng không thể giúp họ tiến thân. Cuối cùng, những người này chỉ ăn bám gia đình, người thân bởi tâm ỷ lại mà không giúp ích gì cho xã hội.

Chúng ta học để biết cách làm chủ bản thân nhờ có suy nghĩ tích cực, có tư duy quán chiếu để nhận ra chân lý cuộc đời và học để biết cách chung sống với mọi người mà không làm tổn hại cho nhau. Đa số chúng ta hiện nay chỉ quan niệm học để kiếm tiền, để có công ăn việc làm ổn định. Đó là cách học để làm ăn.

Có một quan điểm khác rất quan trọng về việc học là học để nâng cao trình độ hiểu biết và biết cách hoàn thiện chính mình mà hầu như hiện nay ít người quan tâm đến.

Chúng ta học nhằm phát triển được hết năng lực của bản thân, nhờ vậy ta biết cách làm chủ bản thân, biết được giá trị sống của đời mình. Đó mới là mục đích chính của việc học. Khi chúng ta đã biết cách phát huy tốt năng lực bản thân, thấy được giá trị thiết thực của cuộc sống là phải nương nhờ vào nhau mới phát triển tốt đẹp thì cần phải có trách nhiệm yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Chúng ta học làm sao để làm một người con hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ bởi đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây” là đạo lý chân thật không thể thiếu trong đời sống hằng ngày. Cha mẹ là người sinh ra mình, săn sóc, nuôi dưỡng mình rất vất vả, nhọc nhằn và còn lo cho mình từ cái ăn tới việc học, đến khi khôn lớn lại dựng vợ gã chồng và còn chia gia tài cho mình nữa. Cha mẹ cũng chính là người thầy giáo đầu tiên dạy chúng ta nên người. Công ơn cha mẹ được ví như trời cao biển rộng mà không gì có thể sánh bằng. Chính vì vậy mà con cái phải biết thương yêu, kính trọng và biết ơn cha mẹ.

Khi còn nhỏ, chúng ta chỉ cần thể hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách nghe lời cha mẹ, siêng năng chăm chỉ học hành và yêu kính cha mẹ. Khi khôn lớn trưởng thành chúng ta thể hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách sống làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình, người thân, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, ân cần săn sóc cha mẹ, kính trọng cha mẹ và giúp đỡ cha mẹ mỗi khi cha mẹ cần đến. Chúng ta làm được như thế thì mới gọi là người con có hiếu và mới được gọi là người có học thức. Nếu chúng ta làm trái các điều này thì ta có thể bị liệt vào hạng người con bất hiếu.

Trong các tội đồ, tội lớn nhất là tội bất hiếu vì cha mẹ là người có ơn nghĩa cao cả mà ta còn không biết ơn và đền ơn thì huống hồ ta có thể giúp đỡ, sẻ chia cùng người khác. Con người một khi đã dính vào tội bất hiếu thì không việc xấu ác nào mà không dám làm.

Qua chương trình tài trợ học bổng với chủ đề “Kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống” của Hội Ấn Tống - Từ Thiện Duyên Lành do chúng tôi làm chủ nhiệm cho các em học sinh khó khăn vùng sâu, vùng xa chúng tôi muốn gửi gắm một thông điệp về việc học. Đó là học để các em nâng cao trình độ hiểu biết mà biết tin sâu nhân quả, biết cách hoàn thiện bản thân để làm tròn bổn phận đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Chúng ta cần phải chú tâm vào việc học ngay từ khi còn trẻ và tiếp tục học hỏi, trau dồi mãi cho đến khi già chết mới thôi. Việc học phải bao gồm từ khi nghe đọc rồi nghiên cứu, suy ngẫm và biết cách áp dụng, thực hành. Từ ý nghĩ cho đến lời nói, hành động cũng phải học. Đó là các em học đúng cách theo lời Phật dạy là “văn, tư, tu”. Như thế, trong lúc đang học các em học sinh vẫn có thể tu được.

Tu trong lúc nghiên cứu, giảng dạy

Tu trong lúc nghiên cứu, giảng dạy là ta chú tâm soạn bài giảng, tập trung vào nội dung cần triển khai. Khi soạn xong ta nên đọc lại từ 3 đến 5 lần để nắm rõ nội dung khái quát. Trước khi lên giảng trong vòng một tiếng đồng hồ ta không cần nhớ nghĩ gì nữa mà chỉ cần nhiếp tâm theo dõi hơi thở, thở vô ta biết mình thở vô, thở ra ta biết mình thở ra, chỉ cần nhìn lại hơi thở mà không cần đối trị. Nhờ vậy, tâm được định tĩnh, sáng suốt, khi lên giảng những gì cần nhớ ta sẽ nhớ liền nên giúp người nghe nắm bắt rõ ràng.

Về phía người nghe cũng vậy, chỉ cần chú tâm khi nghe mà không khởi niệm phân biệt hay-dở. Ta nghe chỉ để học hỏi mà biết cách tu tập và ứng dụng vào trong cuộc sống.

Người giảng dạy Phật pháp trước tiên cần phải biết căn cơ của mọi người và biết điều họ đang muốn nghe. Nếu ta hướng dẫn pháp thoại mà họ không thể thực hành được thì e rằng không đúng ý Phật.

Phật ngày xưa muốn hướng dẫn cho ai điều gì thì trước tiên Ngài quán sát nhân duyên coi ngày hôm nay có thể độ người nào được, nhờ nắm bắt nhu cầu họ mong muốn nên sau khi giảng rất nhiều người sáng đạo, tỉnh ngộ ra. Chúng ta ngày hôm nay khi giảng pháp không phân biệt được trình độ căn cơ của họ, chỉ một bề nói theo sự hiểu biết của mình nên người nghe không hiểu, không biết gì thì làm sao thực hành được.

Đó là một vấn đề nan giải vì nói pháp cho người xuất gia có sự khác biệt rõ ràng với cư sĩ tại gia, do đó chúng ta không thể đánh đồng chung được. Trong một pháp hội người xuất gia khoảng 100 người mà người tại gia có khoảng 1000 người, như vậy ta phải nói pháp thế nào cho phù hợp.

Tốt nhất là nên phân chia rõ ràng giữa pháp hội dành riêng cho người xuất gia với pháp hội dành cho người tại gia vì nói pháp cho người xuất gia khác với nói pháp cho người tại gia. Nói pháp như thế sẽ giúp người nghe dễ dàng lãnh hội. Đó là ta biết tu trong vấn đề nghiên cứu, giảng dạy.

Tu trong lúc lái xe 

Khi lái xe ta dùng tâm biết của mình để điều hành. Mắt nhìn về phía trước để quan sát sự vật, liếc bên phải, bên trái để thấy các phương tiện khác. Tay lái xe, chân đạp thắng, đạp ga, giảm ga. Lỗ tai lắng nghe tiếng kèn của các loại xe khác để biết mà nhường đường.

Trước khi lái xe chúng ta phải tâm niệm mình đang chở biết bao sinh mạng trên xe, do đó ta phải bảo đảm những nguyên tắc sau: Trước khi lái xe không được uống rượu bia. Một người tài xế không được chạy quá 8 tiếng đồng hồ liên tục mà phải đổi ca mới đảm bảo an toàn cho hành khách. Thường thì tai nạn xảy ra do tài xế quá mệt mỏi nên ngủ gật, uống rượu bia hoặc tâm bị dao động, nhớ nghĩ lung tung nên không làm chủ trong lúc lái xe.

Tu trong lúc lái xe đòi hỏi người tài xế phải nhạy bén, tinh thông để ứng biến với những tai nạn bất ngờ. Do đó, ta phải dùng tâm biết quán sát và kết hợp nhuần nhuyễn mọi thao tác, chỉ cần lơ là hay vọng tưởng một chút là xảy ra tai nạn liền.

Dân gian có câu, “làm nghề tài xế một chân ở trong tù, một chân ở ngoài đời”. Vì vậy, tu trong lúc lái xe đòi hỏi người tài xế phải biết quán sát toàn diện, mắt nhìn về phía trước ở tầm xa, giảm ga đạp thắng hay tăng tốc độ đều phải đảm bảo luật an toàn giao thông. Đó là ta khéo biết tu trong lúc lái xe.

Tu trong cảnh nghèo khó

Chúng ta có thể nghèo tiền nghèo bạc, thiếu thốn khó khăn đủ thứ nhưng đâu có nghèo về ý nghĩ, lời nói cho đến hành động. Chính vì thế, chúng ta có thể chuyển hóa những ý nghĩ xấu ác hại mình và người thành những ý nghĩ thiện lành, tốt đẹp.

Khi xưa, ta chưa biết tu nên nói lời hằn học khó nghe, hay mắng chửi người khác, giờ biết tu rồi lời nói nhỏ nhẹ, chân thành, hoặc thay đổi hành động hại người thành giúp đỡ, sẻ chia là ta biết tu trong ý nghĩ, lời nói và hành động. Việc này đâu đòi hỏi chúng ta phải có nhiều tiền của hay nhàn rỗi mới tu được.

Chính ngay nơi cuộc sống vất vả nghèo nàn, thiếu thốn khó khăn ta tự suy nghĩ lại tại sao mình nghèo mà người khác lại giàu có. Nghèo là do không biêt bố thí, cúng dường hoặc giúp đỡ, sẻ chia khi thấy người bất hạnh, khổ đau.       

Trong cuộc sống không ai có thể tự mình tồn tại một cách độc lập mà không phụ thuộc vào người khác. Con cái phụ thuộc cha mẹ, vợ chồng phụ thuộc lẫn nhau, gia đình phụ thuộc xã hội. Tất cả đều có sự liên quan mật thiết qua các mối quan hệ đối nhân xử thế và giao dịch làm ăn.

Người được giàu có ngoài việc nhờ vào sự nỗ lực của bản thân còn cần phải có sự giúp đỡ trực tiếp hay gián tiếp của nhiều người khác. Kẻ thất nghiệp, nghèo khó hoặc chỉ làm các công việc nặng nhọc, vất vả mà thu nhập vẫn không đủ sống là do không biết gieo nhân thiện lành trong quá khứ hoặc hiện đời không siêng năng làm việc lại hay sống phóng túng.

Sự tham muốn của con người là không có giới hạn, lòng tham như giếng sâu không đáy. Khi có quyền cao chức trọng chúng ta sẽ tìm cách vơ vét về cho mình, gia đình mình, đất nước mình nên từ đó chiến tranh có mặt khắp mọi nơi vì nhân tranh giành, chiếm đoạt.

Chúng ta sống đơn giản và muốn ít biết đủ chính là bí quyết dẫn đến an vui, hạnh phúc. Hãy bớt đi một chút những khao khát, ham muốn quá đáng để có được thời gian quay lại chính mình mà biết cách làm chủ bản thân.

Nhiều người quan niệm rằng nghèo là do trời sắp đặt, nói như vậy nghe có vẻ bất công quá. Nếu ông trời quyết định được số phận của con người thì tại sao không ban cho tất cả mọi người đều được cơm no, áo ấm và sống đời bình yên, hạnh phúc?

Trong xã hội, nếu ai cũng tin sâu nhân quả, biết quan tâm giúp đỡ người khác bằng trái tim yêu thương và hiểu biết thì chắc chắn sự nghèo khó sẽ dần hồi được chuyển hóa, thay đổi theo thời gian. Như có những người nghèo khó mà lúc nào cũng khởi lên ý nghĩ tốt, lời nói nhỏ nhẹ hiền hòa, hành động lương thiện luôn giúp đỡ người khác nên được mọi người thương mến, thích gần gũi và giúp đỡ. Ngược lại, nếu ở trong cảnh khó khăn mà chúng ta luôn suy nghĩ xấu, ý hay oán trách người khác, lời nói hằn học khó nghe, hành động ngang tàn bạo ngược sẽ khiến mọi người xa lánh.

Người nghèo tuy ít tiền bạc, đời sống khó khăn nhưng vẫn có tấm lòng rộng mở, lời nói hiền hòa, hành động cao thượng thì dù sống trong cảnh nghèo mà vẫn thấy an vui, hạnh phúc vì biết bằng lòng với hiện tại. Vợ chồng biết thương yêu kính trọng lẫn nhau, con cái luôn hiếu thuận với ông bà cha mẹ, anh chị em biết san sẻ giúp đỡ nhau, cha mẹ nuôi dạy con cái theo đúng tinh thần nhân quả “làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau”. Đó là người nghèo khéo biết tu.

Tu trong lúc bệnh hoạn đau yếu

Nhiều người nghĩ mạnh khỏe mới tu được còn khi bệnh hoạn thì rất khó tu. Đây cũng là sự hiểu biết của một số người chưa thật biết rõ cách thức tu hành. Nếu chúng ta nghĩ khi tụng kinh, sám hối hay ngồi thiền mới là tu thì ta đã hiểu sai. Việc tu hành phát xuất từ ý nghĩ, lời nói và hành động nên ngay khi bệnh ta càng phải tinh tấn gắng tu nhiều hơn nữa.

Bệnh có hai dạng là thân bệnh và tâm bệnh, nhưng phần nhiều thân bệnh là do tâm điều hành, sai sử. Vì sao thân chúng ta lại bệnh? Vì tâm quá tham lam nên ta ăn uống vô độ, món nào thích thì ăn thật nhiều mà vô tình đưa nhiều thức ăn uống nhiễm độc vào cơ thể. Do tâm tham muốn quá nhiều nên trở thành tâm bệnh, vì tham nên chúng ta muốn thân sung sướng, không ngờ cái sung sướng trong khoái khẩu lại là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật quay trở lại làm khổ ta.

Việc tu chính yếu là chuyển hóa phiền não tham-sân-si, mà tham-sân-si từ đâu ra? Từ ý nghĩ của ta. Khi khởi ý nghĩ xấu ta liền chế ngự bằng nhiều cách như niệm Phật-Bồ tát, niệm hơi thở hay thấy nó là vọng dối nên không theo. Đó là ta đang tu chứ không phải khi tụng kinh, ngồi thiền mới là tu. Nếu tu như vậy một ngày tu được bao nhiêu tiếng đồng hồ, những giờ khác chẳng lẽ ta không tu hay sao?

Những người bị bệnh bại liệt phải nằm một chỗ thì nên nhiếp tâm vào câu niệm Phật hoặc niệm Bồ tát, lúc này mọi tâm tư lo lắng, bất an phải gạt sang một bên mà chỉ một bề niệm Phật-Bồ tát. Đây là cơ hội tốt để người bệnh chuyên tâm vào việc tu hành, hãy coi như mình đã chết thì việc tu đâu có chướng ngại gì.

Thế giới chúng ta ngày hôm nay có quá nhiều bệnh tật vì ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm và vì con người ăn uống vô độ. Do ta không biết trân quý sức khỏe nên làm tổn thương thân này. Có người suốt cả cuộc đời lúc nào cũng bệnh, khi bị như vậy thì ta phải biết mình đã gieo tạo nghiệp sát sinh hại vật quá nhiều. Ta hãy nên thường xuyên sám hối để dừng nghiệp cũ, không cho tái phạm nữa, mặt khác lại hay giúp người cứu vật, nhờ vậy sẽ giảm bớt được bệnh tật triền miên.

Khi bệnh ta hãy tìm phương cách chữa trị như đi khám bác sĩ, đi bệnh viện theo dõi, uống thuốc và biết kiêng cử, đồng thời phải siêng năng sám hối để nghiệp chướng được tiêu trừ, biết làm thiện để chuyển hoá nghiệp xấu ác thì từ từ bệnh sẽ giảm bớt hoặc hết bệnh. 

Rất nhiều bệnh tật phát xuất từ tình trạng máu huyết lưu thông không đều đặn do ít hoạt động chân tay. Do đó, một trong những cách phòng bệnh hữu hiệu nhất là hay siêng năng hoạt động chân tay, tập thể dục, đi bộ, bơi lội, làm vườn, lau dọn nhà cửa và lạy Phật-Bồ tát mỗi ngày.

Cũng như trường hợp của ông trưởng giả Cấp Cô Độc khi bị bệnh nặng gần chết. Đức Phật đã bảo Ngài Xá Lợi Phất và ngài A Nan đến thăm bệnh cho ông. Trong lúc thăm hỏi ông đã nói: “Thân thể con đau nhức quá, hai thầy có pháp gì dạy cho con để vượt qua cơn đau đớn này hay không?” Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Cư sĩ hãy quán xét lại 6 giác quan của mình như sau. Con mắt này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào con mắt này, khi thấy chỉ là thấy, thấy tất cả mọi hình ảnh sự vật xanh, vàng, đỏ, trắng đều biết rõ ràng mà không dính mắc vào chúng, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.”

Thực tập đến đây, trưởng giả Cấp Cô Độc liền cảm động mà hai hàng lệ rơi, trong lòng hân hoan phấn khởi. Ngài A Nan hỏi ông rằng: “Cư sĩ, vì sao ông lại khóc? Ông có tiếc nuối gì không? Hay là pháp này quá cao, ông không thể tiếp nhân được?” Trưởng giả Cấp Cô Độc trả lời: “Thưa ngài A Nan, con không buồn khổ hay tiếc nuối gì hết. Con khóc là vì con đã có nhiều cơ duyên phụng sự Phật pháp mà tới giờ này mới được nghe giáo pháp vi diệu, nhờ vậy mà thân tâm con cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng.” Khi hai thầy Xá Lợi Phất và A Nan từ giã ra về thì cư sĩ Cấp Cô Độc an nhiên tự tại xả bỏ báo thân mà được sinh lên cõi trời thứ ba mươi ba.

Đoạn nhân duyên trên trong kinh giáo hóa người bệnh chúng tôi dẫn chứng ra đây để quý vị cùng học hỏi mà ứng dụng vào trong cuộc sống hằng ngày. Nếu có người bệnh không tu pháp môn niệm Phật-Bồ tát mà thích quán chiếu, nghiệm xét thì hãy quán chiếu thân này là gốc khổ đau, là vô thường bại hoại vì già-bệnh-chết nên không bám chấp, dính mắc vào thân này, nhờ vậy dễ dàng buông xả chấp thân tâm là thật ngã.

Tu trong lúc uống ăn

Trên đà phát triển ngày càng cao của nhân loại giúp cho con người hưởng thụ tiện nghi vật chất đầy đủ nhưng ngược lại làm ô nhiễm môi trường nên thức ăn uống bị nhiễm độc nặng nề. Các bệnh viện quá tải vì người bệnh quá nhiều, nguyên nhân chính là không biết điều hoà trong ăn uống.

Người tại gia với bộn bề công việc nên không biết làm cách nào để điều hoà thân tâm, do đó dễ phiền muộn, khổ đau, bệnh hoạn và bất an, lo lắng, sợ hãi. Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uống mà nhẫn tâm giết hại các loài vật. Có những việc cần thiết mà chúng ta không lo, chỉ cố tâm lo phần không quan trọng mà lãng quên phần lợi ích lâu dài.

Trong cuộc sống chúng ta thường chỉ lo ăn với uống và cho đó là vấn đề chính yếu. Do đó, chúng ta tối ngày làm việc vất vả, nhọc nhằn chỉ để lo ăn với uống sao cho ngon miệng nên phải giết hại các loài sinh vật rồi tham đắm, dính mắc vào đó mà chịu quả báo xấu khi đủ nhân duyên. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc cao lương mỹ vị, khi có quyền cao chức trọng thì ăn trên ngồi trước, bắt người khác phải cung phụng cho mình đầy đủ những nhu cầu cần thiết.

Hai bộ phận chủ yếu trong cơ thể chúng ta là thận và gan. Thận điều tiết thải độc tố bằng nước và mồ hôi. Nếu để thận yếu hay thận suy dễ phát sinh bệnh tim mạch và huyết áp cao, tai biến mạch máu não và đột quỵ. Ăn quá nhiều dầu mỡ, đồ nóng từ chiên xào nướng, dùng thức uống kích thích như rượu bia nhiều dẫn đến bệnh nóng gan, sơ gan, viêm gan siêu vi B, C và bệnh ung thư là điều không thể tránh khỏi. Khi bệnh tật đã phát sinh nếu không chết liền thì cũng làm hao tiền tốn của, làm khổ gia đình, người thân và sau khi chết lại dễ bị đoạ lạc vào chỗ xấu ác.

Ăn uống trong thời buổi này phải cao thượng và có ý thức, nếu chấp nhận “muốn ít biết đủ” thì chúng ta sẽ ít bệnh. Trước khi ăn những món hiền lành và bổ dưỡng ta nên nói thầm trong miệng: "Chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng ngăn ngừa tật bệnh và nuôi dưỡng thân tâm sáng suốt." Đó là ta luôn sống trong tỉnh giác khi ăn và khi nấu ăn.

Người cư sĩ tại gia nên ăn nhiều rau và trái cây, ăn ít thịt nhiều cá nhưng phải biết chọn lựa loại nào ít nhiễm độc, vì một số lớn các bệnh tật phát xuất từ việc ăn uống không điều độ hay không biết chọn lựa thức ăn tinh khiết. Chúng ta hạn chế bớt các chất béo sẽ tránh được bệnh tim, huyết áp cao và ung thư gan.

Để quân bình việc ăn uống hằng ngày cơ thể chúng ta cần có đủ chất bổ đến từ thịt, cá và chất xơ trong các thứ rau, đậu và trái cây. Chất xơ giúp tiêu hóa dễ dàng và loại bỏ các thứ mỡ không cần thiết cho cơ thể. Nói chung, thức ăn kho và luộc tốt hơn là chiên, xào, nướng. Ngoài ra, chúng ta nên để ý cách dùng các gia vị âm dương trong nghệ thuật nấu nướng và ăn uống của người Việt Nam. Theo đó, các loại thịt cá thuộc loại âm thường được nấu với các thứ gia vị và rau thuộc loại dương và ngược lại.

Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy mọi người không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Cách thức ăn uống của người Việt tương đối lành mạnh nhưng chế độ ăn uống thường mang tính cách theo thói quen ngon miệng, hợp khẩu vị mà có thể thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết hoặc dư chất bổ dưỡng.

Chúng ta vì sự sống mà phải sát sinh để ăn thịt các loài động vật, điều này dẫn đến ác nghiệp thù hằn vay trả nên tất phải thọ báo xấu khi đủ nhân duyên. Sau khi đã lỡ sát sinh chúng ta phải biết ăn năn sám hối, làm nhiều việc thiện mới có thể chuyển được nghiệp xấu ác mà quả báo có thể nhẹ đi đôi phần.

Chỉ có Phật giáo mới có thể nói rõ được nguyên nhân vì sao xảy ra chiến tranh tàn sát, giết hại lẫn nhau. Chúng ta có thể thấy quả thì biết nhân giống như thấy dưa thì biết ngay dưa là từ hạt giống dưa mà có. Hiện tại, sở dĩ loài người bị quả báo chiến tranh dẫn đến đau thương, chết chóc làm nhiều người đau khổ là do nhân sát sinh hại vật mà ra.

Sát sinh có ba nguyên nhân chủ yếu, một là trực tiếp giết và hai là xúi bảo người khác giết và thấy người giết thì vui vẻ đồng tình. Một số người do không tin lý nhân quả, lại còn cho rằng trời sinh ra vạn vật để phục vụ con người nên mặc tình giết hại. Dân gian có câu “oan gia trái chủ”, giả sử có trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa thì những nghiệp tốt xấu mỗi người đã tạo cũng sẽ không mất. Nên biết, giữa nhân và quả còn có sự trợ duyên, khi nhân gặp duyên đầy đủ thì quả sẽ trổ.

Trong đạo Phật, vấn đề ăn uống không phải là chuyện quan trọng hàng đầu. Dù ăn mặn hay ăn chay chúng ta cũng nên ăn uống đơn giản, đạm bạc để dành nhiều thời gian cho việc tu học và làm lợi ích cho tất cả mọi người. Con người muốn sống một cuộc đời an nhàn, tự tại không nên lệ thuộc quá nhiều vào việc ăn uống.

Tóm lại, vấn đề ăn mặn và ăn chay còn khá nhiều khía cạnh tế nhị khác, trong phạm vi hạn hẹp và có giới hạn chúng tôi không dám luận bàn nhiều, chỉ nhắc lại lời cổ nhân dạy: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”. Nghĩa là, con người sinh ra trên trái đất này ngoài chuyện ăn uống để bảo tồn mạng sống thì chúng ta còn phải làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Cho nên, người tu theo đạo Phật dù tại gia hay xuất gia cũng phải ý thức được chỗ này mỗi khi ăn uống. Khi ăn chúng ta chỉ biết mình đang ăn, mặn lạt, chua cay, ngọt đắng, ngon dở ta đều biết rõ ràng. Lúc ăn ta quan niệm rằng ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn. Nhờ vậy, ta làm chủ trong khi ăn uống mà không bị lòng tham sai sử, do đó sống đơn giản, đạm bạc.

Tu trong lúc tắm rửa, mặc quần áo

Nhiều người nghe nói tu trong lúc tắm rửa, mặc quần áo thì thấy hơi kỳ lạ, nhưng chúng ta phải tu trong mọi hoàn cảnh thì mới được. Quý vị nghe chúng tôi hướng dẫn sẽ thấy giá trị và lợi ích thiết thực của nó. Khi vào trong nhà tắm và lột bỏ hết lớp quần áo bên ngoài ta mới thấy rõ con người chân thật của mình. Cũng vậy, khi chúng ta buông bỏ hết phiền não tham-sân-si thì Phật tính sáng suốt mới hiện ra ngay nơi thân này.

Người phụ nữ khi tắm mất thời gian lâu hơn so với đàn ông vì họ rất quý trọng thân này, do đó họ chú ý từng làn da thớ thịt của mình nên ngắm nghía, chà rửa kỹ càng, nhất là những người đã có chồng có con. Phụ nữ thì sợ xấu, sợ già, sợ hôi, sợ chồng chê, sợ cô đơn và vô vàn nỗi sợ khác nên khi tắm phải dùng nhiều xà bông, nước thơm. Tắm như vậy là đã đánh mất chính mình vì tham đắm, dính mắc vào thân này quá nhiều.

Người nữ mập quá sẽ rất khốn khổ vì nghĩ mình không còn sức hấp dẫn đối với chồng hay người yêu hoặc người khác phái, đó là nỗi khổ niềm đau của phái đẹp. Ốm quá thì thân hình lòi xương trông giống con khô hố, ai chạm đến tưởng như là gốc cây. Nói chung, người nữ mập quá hay ốm quá đều cảm thấy khổ sở vô cùng.

Chúng ta tắm nhằm mục đích rửa sạch chất dơ bẩn sau một buổi hay một ngày làm việc để tẩy đi các chất ô uế bám dính trong người. Khi tắm nước lạnh ta cảm nhận nước mát khắp toàn thân, khi tắm nước nóng ta cảm nhận sự ấm áp của nó. Tắm như vậy là không bị dính mắc vào thân.

Người biết tu trong cuộc sống khi tắm chỉ biết mình đang tắm mà không ngắm nghía, săm soi thân hình, nhờ vậy trong lúc tắm cảm nhận được an ổn, nhẹ nhàng. Tắm như vậy là ta đang biết tu vì không vướng bận bởi thân hình đẹp xấu hay già nua.

Mặc quần áo mục đích chính là để che thân không bị loã lồ, nhưng ta lại nghĩ mặc quần áo để khoe đẹp với người khác, do đó phải tốn tiền mua sắm quá nhiều. Người phụ nữ Việt Nam trong thời hiện đại đang dần đánh mất chiếc áo bà ba hay áo dài, thay vào đó là váy ngắn, áo hở cổ, khoét ngực để khoe sự hấp dẫn, vô tình làm cho các đấng mày râu mê muội, dính mắc vào đó.

Thường thì phụ nữ nặng về luyến ái, tức tình cảm nặng nề, do đó làm đẹp là bản chất của phái đẹp; nhưng ta phải biết hài hoà cho có chừng mực, vừa phải đỡ tốn thời gian lại ít hao tiền bạc, nhờ vậy cũng giảm bớt lòng tham muốn do sự chấp ngã thấy thân mình là thật.

Ăn mặc giản dị, gọn gàng là nét đẹp văn hoá của người phụ nữ Việt Nam. Cái đẹp của người phụ nữ là đẹp ở tấm lòng, đẹp ở nhân cách đạo đức, đẹp ở tấm lòng vị tha. Cho nên người xưa nói: “Cái nết đánh chết cái đẹp”.

Người nam thì đơn giản hơn trong ăn mặc nhưng lại hay dính mắc vào thuốc lá, rượu bia, gái gú, hưởng thụ thức ăn các loài vật quá nhiều. Người uống rượu bia ăn các loài hải sản tươi sống nhiều nên chắc chắn sẽ thiếu lòng từ bi trong đối nhân xử thế, do đó sẽ gánh lấy hậu quả về sau như bệnh hoạn, mất trí nhớ, thần kinh rối loạn và bị nhân quả vay trả thù hằn không có ngày thôi dứt.

Con người chúng ta do chấp thân này là thật ngã nên làm cái gì cũng để cho ta, vì ta, từ đó mà đam mê say đắm, tham lam muốn chiếm đoạt về cho mình. Chúng ta hãy thường xuyên quán sát sẽ thấy thân này vô thường bại hoại nên ai cũng già-bệnh-chết, nhờ vậy ta bớt tham đắm, dính mắc mà dễ dàng tu hành.

Cho nên, tu trong lúc tắm rửa, mặc quần áo rất quan trọng. Chỉ có ta phải tự mình làm việc đó hằng ngày, nếu biết tỉnh giác trong từng ý nghĩ, hành động thì đó là đang tu.

Tu trong lúc xả chất cặn bả ra bên ngoài

Tu trong việc đi tiểu, đi đại cũng rất quan trọng trong đời sống vì nó gắn liền với chúng ta hằng ngày. Nếu trong ngày ta đưa các thức uống vào quá nhiều cũng khổ, nhất là những tay bợm bia đã đưa vô thì phải xả ra, đó là lẽ đương nhiên. Khi tiểu ta hay nhớ nghĩ lung tung, tiểu trong vội vàng, không có ý thức. Khi tiểu ta biết mình đang tiểu, ta chỉ cần nhìn nước tiểu vàng hay trắng sẽ biết được sức khỏe mình ra sao. Nếu nước tiểu vàng quá thì trong người ta bị nóng nên phải biết điều hoà bằng cách ăn uống hay uống thuốc bổ thận âm. Ngược lại, nếu thấy nước tiểu trắng thì biết người quá yếu, thận bị suy nên hay mắc tiểu đêm, do đó phải dùng thuốc bổ thận dương để điều trị. Thông qua đó ta sẽ biết cách điều hoà để cảm nhận được niềm vui trong cuộc sống.

Đi đại cũng vậy, nếu bị bón rặn không ra ta biết mình đang bị nóng gan hay bị trĩ nên phải dùng thuốc trị hoặc ăn đồ mát vào thì sẽ từ từ hồi phục trở lại. Đi phân đen hay xanh, chảy hay chìm xuống ta biết đường ruột yếu nên phải dùng thức ăn nóng cho có tính cách dương tính. Đây cũng là biết tu trong lúc đi đại.

Mình bệnh mà không biết mình bệnh thì nguy cơ cao. Ăn vô mà không thải ra chỉ trong vài ngày thì bụng sình chướng khó tiêu, người bức rức, nóng nảy, chộn rộn. Thật khổ tâm! Nếu bị đi chảy nhiều quá thì coi chừng tiêu đời nhà ma.

Vậy trong lúc đi tiểu, đi đại mình có tu không? Có chứ, nếu không khi ngồi trong nhà cầu mình sẽ khốn khổ đủ điều bởi mùi cặn bã xả ra hôi hám vô cùng mà tâm cứ nghĩ tưởng lung tung. Do đó, ta phải biết rõ ràng từng trạng thái của nó mà không bám dính vào chỗ nào thì coi như ta đang tu trong lúc đi tiểu hay đi đại.

Thế nên, đã làm người tất nhiên vẫn còn nhiều khiếm khuyết, chưa có ai toàn hảo cả, chính vì vậy mà ta cần phải biết tu để chuyển hóa bớt những điều xấu dở của mình phát sinh từ thân-miệng-ý. Dức ác làm lành là điều mà ai cũng phải cố gắng tích cực để giúp ta ngày càng sống tốt hơn. Không chịu tu hành là thiệt thòi cho chúng ta và làm ảnh hưởng tới mọi người xung quanh, cụ thể nhất là gia đình, người thân. Cho nên, nếu không đủ duyên xuất gia vào chùa để tu thì ta phải biết áp dụng tu trong mọi hoàn cảnh, dù bất cứ trường hợp nào chúng ta cũng phải quyết tâm kiên trì, bền bỉ.

Nói tóm lại, người Phật tử chân chính phải biết ứng dụng tu trong mọi hoàn cảnh, bởi có 5 việc mà ta phải làm hằng ngày không ai có thể thay thế cho ta được. Thứ nhất là thay mặc quần áo, thứ hai là ăn uống, thứ ba là tắm rửa, thứ tư là đi tiểu và thứ năm là đi đại. Vậy cái gì biết để làm 5 việc đó?

Cái biết này không hình tướng nhưng lúc nào cũng có trong ta, tuy không suy nghĩ, nói năng, hành động nhưng ta vẫn biết, cái biết này nương nơi mắt thì thấy chỉ là thấy, nương nơi tai nghe chỉ là nghe, thế nên ta gọi là thấy nghe hay biết mà không dấy tâm động niệm.

Đây chính là mục đích Phật muốn chỉ dạy, mọi người đều phải lãnh hội chỗ này, thấy tức biết, biết tức tâm mà là tâm Phật sáng suốt. Mỗi hành giả không phân biệt người xuất gia hay tại gia, ai lãnh hội được chỗ này thì “dù cho gươm bén kề cổ cũng giống như chém gió xuân”, bởi vì lúc này ta, người, chúng sinh và thọ giả đã không còn. Đó là cốt tủy của Phật pháp, chỉ đơn giản vậy thôi mà có một số vị Thiền sư phải mất đến 50 năm.

Chúng ta ngày hôm nay thật may mắn vì gặp được Phật pháp chân chính. Nên vì vậy, người tại gia với bộn bề công việc phải biết áp dụng tu tập trong 5 điều kiện trên vì nó gắn liền với ta hằng ngày, nếu không ta sẽ đánh mất chính mình mà sống trong đau khổ lầm mê.

Mục đích của việc tu là ta phải biết điều phục từ ý nghĩ, lời nói, hành động trong mọi hoàn cảnh để mình và người khác được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ với phương châm “tốt đạo đẹp đời”.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

3.25

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập