Tiết điệu, âm thanh, nhạc tính là bản sắc của thi ca. Niêm luật là một phương thế làm cho bản sắc ấy được hiển lộ. Cũng như những kỹ thuật tập luyện thể dục đã tạo điều kiện cho bản sắc một lực sĩ đẹp được hiển lộ vậy. Do đó, làm thơ mà cứ bo bo bám lấy niêm luật, để cho niêm luật ám ảnh thì cũng chẳng khác gì một người vừa cúi nhấc cặp tạ vài cái mà đã ngỡ mình là lực sĩ đẹp vậy. Thơ bảo đảm cho sự hiệu dụng của niêm luật, chứ không phải niêm luật bảo đảm cho sự thành công của thơ. Bảo đảm cho sự thành công của thơ chính là âm thanh, tiết điệu và nhạc tính của thơ vậy. Bảo đảm ở chỗ đó là những CHỈ SỐ, những dấu hiệu cho thấy được sự thành công của nhà thơ, của bài thơ. Thành công cái gì? Điều gì? Vì quên mất hiện hữu uyên nguyên, kinh nghiệm uyên nguyên về cuộc đời cho nên nhiều lúc người ta cũng quên luôn bản chất của thơ là một kinh nghiệm, và cụ thể là một cách diễn tả kinh nghiệm về cuộc đời. Thơ là một cách hiểu, một cách sống với đối tượng, sống với hoàn cảnh. Có nhiều cách thế hiểu biết, hiểu biết thường nghiệm, hiểu biết thực nghiệm, hiểu biết siêu nghiệm. Hiểu biết gần với bản năng, hiểu biết thực nghiêm liên hệ với trí huệ, hiểu biết siêu nghiệm gần với linh giác, trực giác. Hiểu biết thường nghiệm chỉ là một cách né tránh hay sở hữu đối tượng, nghĩa là một cách kinh nghiệm trong đó CHỦ THỂ chiếm ưu thế. Hiểu biết thực nghiệm như khoa học là một kinh nghiệm trong đó ĐỐI TƯỢNG chiếm ưu thế. Hiểu biết siêu nghiệm thì chẳng còn ưu thế của đối tượng mà cũng chẳng còn ưu thế của CHỦ THỂ. Bergson gọi đó là trực quan. Trực quan hay linh giác là một hiểu biết trong đó chủ thể và đối tượng đã không còn một biên giới ngăn cách cụ thể nào. Connaitre la co-naitre (hiểu là cùng sanh thành). Hiểu biết đích thực không phải là biết mình, biết người nhưng là hiểu được “mình với ta tuy hai mà một” vậy. Nói cách khác, hiểu biết đích thực là một sự hòa đồng, hòa hợp vươn khỏi bản năng trí huệ vậy. Mình với ta tuy hai mà một, có nghĩa là không còn mình, cũng không còn ta. Trong trình độ hiểu biết này, chủ thể đã tự xóa mình là chủ thể, để xóa luôn những ngăn cách trí huệ, bản năng, thành kiến, lý luận giữa chủ thể và đối tượng.

Không xóa được những ngăn cách đó thì cô thôn nữ sẽ không thể nào “múc ánh trăng vàng”, thì Huy Cận sẽ không thể nào mời gọi:

“Chiều ơi hãy đến thăm ta với
Thiên hạ đìu hiu đời trống không”

Người ta vẫn thường gọi những cách hiểu nên thơ ấy là “nhân cách hóa”, là tỉ dụ, hoán dụ… Thực ra, đó là một sự hòa đồng, hòa hợp. Không có được sự hòa đồng, hòa hợp đó, không có được tình trạng đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu đó thì thơ khó mà còn là thơ nữa.

Âm thanh, tiết điệu, nhạc tính, niêm luật… chính là những điều phát xuất từ kinh nghiệm hòa đồng hòa hợp ấy, và mặt khác, là những phương tiện mở đường cho người đọc thơ sống với, và sống lại kinh nghiệm hòa đồng hòa hợp đó của thi nhân.

Làm thơ không chỉ là thấy sông LÀ sông, núi LÀ núi, nhưng là thấy được sông núi HỮU TÌNH, nghĩa là sông núi có một mối giao hòa với con người, với thi nhân. Thể nghiệm được mối giao hòa đó là SỐNG THƠ, diễn đạt được mối giao hoà là LÀM THƠ, truyền đạt được kinh nghiệm giao hòa đó cho kẻ khác tức thành công của thơ. Âm thanh, tiết điệu, nhạc tính giữ một vai trò tối quan trọng trong sự thành công đó.

Nếu văn, họa, điêu khắc cột chặt người thưởng ngoạn vào tác phẩm, thì trái lại, thơ và nhạc lại đưa người ta vào một thế giới không còn nghệ phẩm, không còn nghệ sĩ, không còn chủ thể thưởng ngoạn nữa. Bản sắc của thơ do đó cũng là siêu thực. Siêu thực không phải không tưởng nhưng là sống với thực tại bằng một ý thức cao hơn ý thức duy sinh, duy dụng, duy lý. Ý thức cao hơn là thấy được sự vật NHƯ LÀ sự vật, không theo một thành kiến, một nhãn quan thực tiễn nào, hoặc chỉ theo thành kiến của “con tim” nghĩa là của cảm xúc, của rung động mà thôi.

Siêu thực không phải là phủ nhận sự vật nhưng chính là thấy được sự vật như là sự vật vậy. Có thể nói chính hiện hữu thường nhật, chính sự tính toán, suy luận, phân tích, đo lường thực nghiệm, thực dụng mới là những cách phủ nhận sự vật. Với cuộc sống thường nhật, cái bàn chỉ ĐỂ MÀ viết, ghế ĐỂ MÀ ngồi, với cái nhìn thực nghiệm thì không bao giờ có cái hoa ĐẸP, vì theo quan điểm thực vật học chẳng hạn, hoa chỉ là một cơ quan sinh dục.

Muốn thấy được sự vật như là sự vật thì phải ly khai với cái nhìn thường nghiệm, thực nghiệm nghĩa là với thành kiến này hay thành kiến khác. Thơ là một nỗ lực ly khai ấy. Một sự ly khai gần như phú bẩm, tự nhiên. Chính khả năng siêu thực hóa thực tại, khả năng ly khai ấy đã giúp cho thi nhân biến “kho trời chung” thành “vô tận của mình riêng” vậy.

Càng sống, càng lớn, càng già, con người càng xa nguồn sống, càng xa thế giới uyên nguyên, hiện hữu uyên nguyên. Thế giới đó đã bị “tiến bộ” vượt bỏ, lý trí phủ nhận, nhưng thế giới đó vẫn tồn tại trong ký ức của mỗi người, mỗi dân tộc: thế giới huyền thoại, nguyên thủy, trong đó người, cỏ cây và muôn thú đều hữu tình, hữu ngôn. Thi ca chính là một cách phục hồi khả năng tái hoạt thế giới ấy, một cách gọt giũa lại cái cảm xúc, rung động đã chai lỳ, cùn nhụt của kiếp người chỉ còn biết những gì là hữu ích, hữu dụng, hữu lý mà thôi.

Vì muốn phục hồi và có khả năng phục hồi thế giới đích thực và uyên nguyên ấy, phục hồi tính cách tự tại của sự vật, tính cách thường hằng của đối tượng nên thi ca đã trở nên siêu thực, thi ca phải ly khai. Ly khai với thành kiến, với chấp kiến, vốn là những hàng rào ngăn cách con người với thực tại đích thực, không cho con người thấy được bản chất đích thực của thực tại. Thành bại hay giá trị của thi ca tuy thuộc ở khả năng siêu thực, khả năng ly khai, và đồng thời là khả năng giao hòa như vừa nói vậy.

Nói đến thành bại, giá trị đó của thơ là điều rất khó. Bài thơ hay đã hẳn không phải là bài thơ chưa hề được viết ra. Nhưng bài thơ hay cũng chưa hẳn là bài thơ từng được số đông nhận là hay, hay bài thơ đã được trúng giải này giải nọ. Đó chẳng qua cũng chỉ là những lệ định. Hội đủ tất cả những điều kiện cụ thể của một bài thơ hay chưa hẳn là đã có được một bài thơ hay. Thơ là một kinh nghiệm sống thực chứ không phải là một sự kiện, sự vật. Vấn đề tiên quyết đặt ra là kinh nghiệm sống thực đó có giúp thi nhân, và kẻ thưởng ngoạn về sau đạt đến cùng đích của hiện hữu là giao hòa với vũ trụ, với cuộc đời, với môi trường sống hay không. Nói đến giá trị của thơ do đó là nói đến một giá trị TƯƠNG ĐỐI, không phải là tương đối theo nghĩa TƯƠNG QUAN với hoàn cảnh sống thực của nhà thơ khi sáng tạo cũng như của người thưởng ngoạn khi đọc, khi ngâm hay được nghe ngâm bài thơ đó vậy.

Càng sống thực thì thơ càng hay, và thơ càng hay thì càng cho người đọc nhiều cơ hội sống thực. Sống thực không phải là sống với cái cụ thể, mà đồng thời cũng là cái phù ảo. Sống thực chính là sống với cái thường hằng, siêu thực, vĩnh cửu. Sống thực là hòa tình người với tình núi sông, cây cỏ, là hòa tiểu ngã với đại ngã, là hòa hợp hồn cá nhân với hồn vũ trụ. Sự hòa hợp đó cũng chính là sự hòa hợp có tính cách tín ngưỡng vậy.

SỰ CHÂN THÀNH CỦA THI NHÂN

Đời không có thơ, đời vẫn có. Thơ không có đời, thơ không có. Nhưng bám chặt cuộc đời với đôi mắt thế nhân thường tình thì cũng không có thơ, ngay cả khi thi nhân hướng nhìn những cảnh thông thường, bình dị nhất như thi nhân vô danh nhìn người thôn nữ tát nước tưới ruộng. Người thôn nữ có thể đẹp nhưng đối tượng của thơ chính là những “ánh trăng vàng” bị người thôn nữ múc đổ đi.

Đời, do đó chỉ là chất liệu cho thi nhân tô điểm, làm cho hồng thành hồng thắm, xanh thành xanh biếc, âm u trở thành hắc ám. Tắt một lời, làm cho đời trở thành một sự kiện tuyệt đối, một sự kiện đáng sống, đáng yêu, và do đó, cũng có thể trở thành đáng chán, đáng ghét. Thi ca là một cách sống, một cách nhìn, và hơn nữa, thi ca là một cách sống tuyệt đối, là một cái nhìn bản thể. Thi nhân là kẻ lật mặt nạ cuộc đời, để tô thêm hồng thắm, mà cũng có thể để bôi thêm lem luốc. Nhưng gì đi nữa thì thái độ tất yếu của thi nhân vẫn là sự chân thành. Sự chân thành của thi nhân là chân thành với đời và với chính mình.

Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(Phùng Quán)

Không còn sự chân thành đó thì thi nhân sẽ không còn là thi nhân, và đời cũng chỉ là đời đã bị phóng thể vì ý thức hữu dụng. Ý thức đó làm cho con người không còn mơ mộng, nghĩa là không còn thơ, làm cho cuộc đời trở thành thực, nghĩa là không còn nên thơ nữa. Và như vậy cũng sẽ không đủ khả năng để thúc dục con người dám liều:

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Xuân Diệu)

Cuộc đời hôm nay, con người hôm nay đang đi vào những lo sợ của Aldous Huxley, của George Owens, của Alain Toffer. Phải chăng, đến lúc và đã có lúc con người phải lựa chọn giữa “Người máy và hoa sen”, giữa kỹ thuật và thi ca?

Trở lại với thơ, nếu không phải là điều tất yếu thì ít ra cũng là một điều cần thiết để còn có thể tiếp tục dấn thân, để khỏi chai đá, để khỏi trở thành máy móc giữa một khung cảnh đang ngập khói xe và tiếng động cơ giới.

HUYỀN KHÔNG
Los Angeles, Cuối xuân Tân Dậu