Hoa mai và đạo tình

Đã đọc: 9105           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Đứng trước phong cảnh ngày Xuân, muôn hoa khoe sắc, nhà thơ thưởng thức vẻ đẹp này để rồi dạt dào bao nỗi luyến lưu. Cảm xúc theo cảnh trào dâng khiến nhà thơ cao hứng muốn ghi lại hình mạo của Chúa Xuân.

    Những chất liệu làm nên thi ca thì rất nhiều: Màu sắc rực rỡ của hoa đào, âm thanh xào xạc của rặng dương liễu, tiếng hót líu lo của chim hoàng oanh. Phần lớn những tác phẩm vẽ lại những cảnh vật ở trước mắt có sức mời gọi như trên, ai có thể dững dưng. Nhưng đối với bậc cao tăng kiến đạo bằng trí huệ lớn từ "Sắc" thấy "Không" thì nhận rằng núi sông và đất đai đều hiển lộ pháp thân, hoa cỏ làm người vui mà cũng hiển lộ chí đạo. Cũng như các nhà lý học đời Tống chẳng hạn, họ ca tụng những câu thần tình trong Kinh Thi, cho là Thiền cơ hoạt bát để dẫn chứng cho sự lưu hành của chí đạo.

            Chu Tử nói:

Bán mẫu phương đường nhất giám khai
Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi
Vấn cừ na đắc thanh như hứa
Vị hữu nguyên đầu hoạt thủy lai.

(Mặt ao rộng nữa mẫu giống như một mặt gương.
Sắc trời bóng mây cùng in bóng trong đó.
Hỏi ra vì sao được trong như thế,
Vì có nước lưu thông ở đầu nguồn đến)

Ao vuông nữa mẫu giống như gương
Trời mây một sắc đến in khuôn
Hỏi ra sao được trong như thế
Bởi nước lưu thông ở thượng nguồn.

            Ông cho đó là lời nói kiến đạo, là thơ ngụ đạo.

            Hoa mai là quốc hoa cho mọi người cùng thưởng thức, tánh chịu đựng sương gió lạnh lẽo giúp nó trổ hoa chính là tượng trưng cho tinh thần và khí tiết của người Trung quốc. Hoa mai được nhà thơ khen tặng đứng đầu trăm hoa. Các câu thơ vịnh hoa mai nổi tiếng của Lâm Hòa Tĩnh như:

Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển
Âm hương phù động nguyệt hoàng hôn
(Bóng thưa của hoa nằm ngang giữa làn nước trong ở nơi cạn,
 Hương thầm của hoa làm lung lay bóng nguyệt lúc hoàng hôn)
Bóng hoa vắt ngang làn nước biếc
Hương thầm lay nguyệt lúc hoàng hôn.

            Và của Tô Đông Pha như:

Phân phân sơ nghi nguyệt quảy thụ
Liên liên độc dữ tham hoàng hôn.
Những cánh hoa mai rơi lả tả mới ngỡ rằng trăng rải ánh vàng trên cây,
Nhà thơ như hòa làm một với hoa mai lúc hoàng hôn)
Mai lả tả ánh vàng vương cây lá
Người với hoa là một giữa hoàng hôn

            Phần đông dừng ở nơi thấy hoa tả cảnh, có thể là cao tăng hoặc thiền nhân cảm thọ chẳng đồng, dùng hoa mai để gởi gắm tình cảm ẩn chứa đạo lý. Bài thơ cổ mai (gốc mai già) của một nhà sư đời Đường như sau:

 Hỏa ngược phong thao thủy tứ căn
Sương thuân tuyết trựu cổ đài ngân
Đông phong vị khẳng tùy hàn thử
Hựu nghiệt hanh hương dữ phản hồn.
                                    Đường tăng (khuyết danh)

            Dịch thơ:

Gốc mai già
Lửa táp gió lùa lại nước ngâm
Sương (như) búa, tuyết (như) cưa khắc dấu hằn
Gió đông lạnh buốc dù chưa đến
Song vẫn đâm chồi tỏa ngát hương
                                    Một vị tăng đời Đường.
Thiên niên đài thọ bất thành Xuân
Thùy tín u hương tợ ngọc hồn (1)
Tế tuyết mãn lâm vô nguyệt sái
Điểm đăng xuy giác tố hoàng hôn
                                    Hư Đường Trí Ngu (2)

            Dịch thơ:

Nghìn năm rêu bám, chẳng nghênh Xuân
Ai hay hương thoảng tợ ngọc hồn
Trời lạnh khắp rừng trăng chẳng chiếu
Đốt đèn, thổi ốc, báo hoàng hôn

Trích trong Ngữ lục của Thiền sư Trí Ngu hiệu Hư Đường (quyển  7)

Thường ức Tây Hồ (3) xử sĩ gia
Sơ chi linh nhụy tự hoành tà
Tinh minh nhất phiến đương thời sự
Chỉ khiếm thanh hương bất khiếm hoa

            Dịch thơ:

Thường nhớ Tây Hồ nhà ẩn dật
Chuộng vẽ mai vàng với cành trơ
Một đóa linh khôi vừa mới hé
Chỉ thiếu hương thơm chẳng thiếu hoa.

            Thơ ngụ đạo không gì khác hơn là mượn có để hiển không, mượn vật để ngụ lý dùng thanh sắc để hiển dụng, dùng nó để giải thích thì rất tốt. Hoa mai thường được nhà thơ thưởng thức lấy làm đề tài ngâm vịnh, cũng là đối tượng mà thiền sư dùng để hiển bày thiền cơ Phật lý. Hoa mai trước gió đông và băng tuyết tượng trưng cho tiết tháo của bậc hiền nhân quân tử giữa những cơn biến động của cuộc đời, nên rất được thi nhân và triết gia thưởng thức cùng ngâm vịnh.

*****

            Chú thích:

            (1) Ngọc hồn: tên một loài hoa đẹp.

            (2) Trí Ngu (1185 - 1269): Thiền tăng đời Tống, họ Trần, hiệu Hư Đường, tức Canh Tẩu, người Tương sơn (Triết giang) Trung Quốc. Năm 16 tuổi theo Sư Uẩn chùa Phổ Minh xuất gia, du học khắp nơi, đến Kim Sơn yết kiến Vận Yểm Phổ Nham được tỏ ngộ, nối pháp làm truyền nhân phái Dương Kỳ tông Lâm Tế. Sau đó lần lượt tham kiến các bậc thiện trí thức. Niên hiệu Thiệu Định thứ 2 (1229), ban đầu sư trụ trì chùa Hưng Thánh, sau đó lần lượt trụ các chùa Báo Ân, Hiển Hiếu, Thụy Nham, Diên Phước, Bảo Lâm, Dục Vương, Tịnh Từ, Kinh Sơn. Sư được Tống Lý Tông, Tống Độ Tông quy y, giáo hóa hưng thạnh.

            Tác phẩm: Hư Đường Hòa Thượng Ngữ Lục 10 quyển lưu hành nơi đời.

            (3) Tây Hồ: tức Lâm Hòa Tĩnh, một nhà ẩn dật đời Minh.

            Lâm Hòa Tĩnh (967 - 1928) tên thật là Lâm Bô, tự là Quân Phục, người Tiền Đường (Hàng châu), học giỏi nhưngkhông chịu ra làm quan, ở ẩn trên núi Cô Sơn, bạn cùng hoa mai và chim hạc.

Sưu tầm: Thanh Sơn
(Trích dẫn: Thơ Thiền Đường Tống, nhà xuất bản Đồng Nai)

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập