2. Ân Đức Sâu Dày

Đã đọc: 2414           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Mùa Vu Lan Báo Hiếu-2011-Tân Mão. Kính dâng giác linh cố Hoà Thượng khai sáng Tu Viện Huệ Quang!

Năm 1990 là năm đại tang trong cuộc đời con. 28 tháng giêng, Thầy an nhiên thị tịch trong tư thế tĩnh toạ, tại Tu Viện Huệ Quang. Đến 25 tháng 6 thân mẫu con vui vẻ theo Phật tại bệnh viện Nguyễn Trãi, rồi đến 28 tháng 10, Hoà thượng Kim Huê an nhiên nhi hoá sau thời gian chống chọi với tử thần. Như vậy là trong vòng 10 tháng, con đành phải chấp tay bái biệt 3 người mà suốt đời con tôn thờ, kính trọng nhất.

 

Đến giờ, 18 năm đau buồn xa cách, khi mùa Vu Lan Báo Hiếu trở về, cõi lòng con nao nao nhung nhớ, như có muôn ngàn mũi kim đâm vào tận đáy tâm hồn. Càng đau buồn và xấu hổ hơn là 18 năm qua, chưa lần nào con ghé lại Đại Tòng Lâm để đảnh lễ viếng thăm Thầy. 18 năm con mãi vui với duyên trần giả huyễn, lắm khi để cho những thứ lăng xăng bên ngoài làm ô uế cõi lòng.

Có những lúc tưởng như lạc lối quên đường, nhưng may thay, trong con lại hiện về những kỷ niệm, những hình ảnh tuyệt vời, những nhân dáng siêu thế nơi Huệ Quang Tu Viện, mảnh già lam đã được chính Thầy khai sáng. Thầy đã hun đúc tinh thần, truyền trao những giọt nước mát ngọt ngào, mồi ngọn đèn trí tuệ để con khôn lớn nên người. Bên cạnh Thầy, tất cả những khốn khó nhường lối cho hạnh phúc an lạc bước tới, những trở ngại nhất thời cất lên tiếng pháp thậm thâm.

 

Kính bạch Thầy, trong chùa, vào dịp Vu Lan Thắng Hội, con thường thắp nhang, tụng kinh, niệm Phật nguyện cầu cho biết bao người đã không may trở về cát bụi, nhưng chưa bao giờ con đốt một nén hương, xông một khoanh trầm để dâng cúng Thầy. Trong khi cả cuộc đời Thầy đã không tiếc công sức sách tấn, dạy dỗ từng lời, từng chữ, từng cách đi, dáng đứng, giống như Thầy xông hương cho tâm hồn con tươi nhuận trong sự nhiệm mầu của chánh pháp.

Thầy ơi, con còn nhớ rất rõ, những tháng ngày yên ả thanh bình, được nhân duyên hầu hạ, làm thị giả cho Thầy là cả một diễm phúc trên đời. Chính nhờ ân đức này, mà mảnh y giải thoát con mặc vẫn còn nguyên vẹn. Chính nhờ hồng phúc kề cận Thầy, mà con đủ đầy phước duyên tiến tu đạo nghiệp. Chính nhờ những tháng ngày phục dịch tại Tu viện mà con có dịp may vun bồi vườn trí nơi này chốn nọ.

 

Sau ngày Thầy viên tịch, con đã rời khỏi Huệ Quang trong tuần thất 21 ngày. Nghe nói Huệ Quang bây giờ đã đổi da thắm thịt nhiều lắm rồi. Nơi phương xa, lâu lâu lại được những thông tin nơi mái chùa nhỏ năm xưa phát triển không ngừng, lòng con tràn ngập niềm vui bất tận. Nhưng, dầu Tu viện Huệ Quang có theo dòng đời vô thường thay đổi gì đi nữa, cũng không làm sao đủ sức đổi thay, không làm sao có năng lực làm phủ mờ được nhân dáng ngồi như tượng vương tại thiền sàng nơi nhà tổ hoặc trên chánh điện của Thầy. Với con, thời gian không thể thay đổi những kỷ niệm đẹp đã được kết tinh, lắng đọng trong tâm tư mọi người. Thời gian không làm sao bào mòn những giá trị đạo đức tâm linh, hay những lời dạy thiết tha chân tình xuất phát từ cõi lòng của người đã thấy rõ đường về.

1. Suốt Đời Hành Hoá:

Kính bạch Thầy, con còn nhớ, tháng ngày ở Huệ Quang, ngoài thời giờ giảng dạy Kinh-Luật cho Tăng-Ni, Thầy đã dành hết thời gian chuyên sâu vào thiền định.

Thầy thường tĩnh toạ trên chiếc Bồ đoàn bằng cây đơn sơ, hay ngồi trên chiếc giường cũ kỷ năm nào. Mỗi ngày 6 thời, mỗi thời ít nhất 2 giờ. Nhân dáng thiền định của Thầy vững chắc như vách núi. Đôi mắt sâu kín của Thầy luôn như sẳn sàng ban trải tình thương dạt dào đến học chúng xa gần.

 

Ôi, cuộc đời hành hoá của Thầy đã không biết mỏi mệt trong công phu tu tập, không biết dừng nghỉ trong phụng sự chúng sanh và không biết chán nản trong giáo dục, đào tạo Tăng-ni tài đức cho đạo pháp dân tộc. Có những khi, vì Phật sự đa đoan, công việc giảng dạy bộn bề, cần có thời giờ quan tâm giải quyết hay nghỉ ngơi, nhưng con vẫn thấy Thầy thong dong tự tại như không có chuyện gì. Về điểm này, con đã thấy rõ, hầu như không gì có thể buộc ràng đời sống thư thái nhẹ nhàng của Thầy, thậm chí những việc được gọi là Phật sự.

 

Mỗi tối hầu cận Thầy, Thầy thường khuyên bảo: “làm bất cứ việc gì cũng phải bằng tâm đức, phục vụ đạo pháp chúng sanh phải hết dạ hết lòng, đừng chấp chặt rồi tự chuốc lấy khổ đau”. Điều này được thể hiện rất rõ trên nét mặt hoan hỷ của Thầy hay những lúc an nhiên tĩnh toạ trên thiền sàng.

Thầy đã buông xả tất cả để trở về nguồn tâm ngời sáng, sống với thể tánh thanh tịnh nhiệm mầu bất sinh bất diệt. Vì vậy, tuy công việc ngập tràn, Phật sự đa đoan, nhưng với Thầy chỉ như cơn gió thoảng bay qua, chỉ là tuỳ duyên hành hoạt.

 

2. Trường Hạ Vĩnh Nghiêm năm nào:

Ngưỡng bạch Thầy, tình thương của Thầy trọn dành cho con luôn như bát nước đầy. Thầy đã thực sự quan tâm và ước mong con sau này trở thành vị Tăng trẻ giúp ích cho đạo, có lợi cho đời. Nên năm nào cũng vậy, Thầy luôn khuyến khích con tham dự những khoá An Cư Kiết Hạ nơi này nơi kia, mặc dù tại Huệ Quang lúc nào cũng có lớp giảng dạy Phật pháp do Thầy đảm nhiệm.

 

Con nhớ khoảnh khắc diệu kỳ và tấm lòng vị tha lo cho đàn hậu tấn của Thầy. Năm 1988, sau một đêm ân cần khuyến khích, chính Thầy ngồi xe xích lô, từ Huệ Quang ra Chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3 để gởi con cho Cố Hoà thượng viện chủ nhận con tham dự Khoá An Cư năm đó.

Thầy đã tiến dẫn con đến thẳng phương trượng của Cố Hoà thượng viện chủ, con đắp y vào đãnh lễ Người. Cố Hoà thượng viện chủ lúc nào cũng tươi cười, nét mặt khoan dung bình dị. Chính Cố Hoà thượng là người hướng dẫn con ra nhà tổ để đảnh lễ chư tổ, tác pháp Hậu An Cư cũng như đảnh lễ chư vị lãnh đạo hạ trường.

 

Ngày đó, trường hạ Vĩnh Nghiêm chỉ thu nhận những vị Thượng toạ cao đức, chư tôn túc đủ đầy nội lực và khả năng làm việc Phật sự tại các quận, huyện, nội ngoại thành. Vì vậy, Vĩnh Nghiêm luôn là Trường hạ kiểu mẫu tại thành phố. Trong khi đó, con là Tỳ kheo nhỏ nhất trong trường hạ-nhỏ tuổi đạo lẫn tuổi đời và là người đến sau hết. Trong thâm tâm của một số ít quý Thầy, lúc nào cũng cho con là người ỷ lại vào cái dù cao của Thầy và Cố Hoà thượng Hoá chủ. Nên những ngày đầu, con cảm nhận không khí không vui cho lắm. Nhưng lần hồi, với uy đức của Thầy, với lòng quảng đại quan tâm thương mến của Cố Hoà thượng, con đã an tu nơi đây trong 3 tháng mà không có bất cứ sự cố đáng tiếc nào xãy ra.

 

Mái chùa Vĩnh Nghiêm năm xưa, nơi Cố Hoà thượng đức độ dung từ, luôn hoan hỹ với mọi người và luôn gánh vác những trọng trách nặng nề trong hạnh nguyện “truyền đăng tục diệm”. Con thấy, Cố Hoà thượng và Thầy là những bậc tiền bối luôn tôn kính, hoà mục và hiểu biết nhau rất nhiều, trong tu tập cũng như trong Phật sự. Đặc biệt những kỳ tổ chức các Đại Giới đàn tại Tổ đình Ấn Quang, con mới chứng kiến sự nhịp nhàng bên ngoài lẫn bên trong của hai bậc tòng lâm thạch trụ. 18 năm rồi, mà con cứ tưởng như mới hôm qua.

 

3. Tổ Đình Linh Sơn khó quên:

Thầy ơi, một kỷ niệm khó quên nữa là trong những năm hầu Thầy, Thầy thường khuyên dạy con “là tu sĩ, ngoài đức độ được vun đắp từ nội lực tu hành, còn phải là người am tường cả thế pháp lẫn Phật pháp”. Đối với Thầy, Tăng sĩ nếu có duyên và điều kiện về trí lực, phải thành thạo các việc tổ chức lễ lạc của truyền thống Phật giáo.

Chính Thầy có khi viết giấy giới thiệu, có lúc đích thân gởi con ra thọ học với cố Hoà thượng Tổ đình Linh Sơn, Cầu Muối bấy giờ.

18 năm qua, lúc nào con cũng nhớ hình ảnh và tấm lòng của Thầy đã ban phát cho con. Thầy luôn mong muốn con sau này, ngoài việc chính tu hành, còn phải là người có khả năng về mặt tổ chức lễ lạc và những năng lực ứng đối khác trong cuộc sống vị tha. Lúc đó, dưới cái nhìn của Thầy, cố Hoà thượng Linh Sơn là người lịch lãm trong mọi tổ chức lễ lạc Phật giáo.

 

Thật đúng như vậy, con đã được cố Hoà thượng thương tưởng tận tình chỉ dạy. Từ việc tổ chức Lễ chúc Thọ cho các bậc cao niên, Lễ Xuất gia, Lễ thọ bát quan trai, Lễ truyền trao Tam quy ngũ giới, đến cách thức tiếp đãi Phật tử và những thành phần nhân sĩ trong xã hội. Con nghĩ, chính nhờ hồng đức của Thầy mà con có cơ duyên được học hỏi nhiều đến thế. Chính nhờ sự quý mến lẫn nhau giữa Thầy và cố Hoà thượng Linh Sơn, nên Ngài đã mang hết tâm huyết truyền trao những kiến thức và kinh nghiệm của một đời người chỉ dạy cho con.

Chắc giống như Huệ Quang Tu Viện, 18 năm qua, Tổ đình Linh Sơn cũng thay đổi nhiều lắm. Chư tôn đức thuở đó chắc cũng đã di chuyển nơi này chốn nọ để thiết lập đạo tràng, hoá độ chúng sanh. Có người vẫn còn hiện hữu trên trần gian và cũng có vị đã hoá sinh về bên kia cõi Tịnh.

Nhưng tâm hạnh và sở nguyện dấn thân phục vụ của Thầy và cố Hoà thượng vẫn còn mãi trong lòng Tăng-Ni, Phật tử, vẫn còn nguyên vẹn, đủ đầy như mới hôm nào.

 

Hơn thế nữa, Tăng-Ni, Phật tử ở Sài gòn thời đó đều công nhận với nhau rằng, thân tướng trang nghiêm của cố Hoà thượng Linh Sơn và Thầy đã in đậm trong lòng của Tứ chúng xa gần và của  riêng bản thân con.

Ôi đẹp đẽ và trang nghiêm làm sao, trong bất cứ buổi lễ Phật giáo nào, đều có sự chứng minh của Thầy và cố Hoà thượng, thì những buổi lễ đó thêm phần trang trọng, thêm nhiều tín tâm cho mọi thành phần tham dự. Hai Ngài đều có chung sức hút mảnh liệt đối với tha nhân. Đó là thân tướng trang nghiêm, giọng nói từ tốn như chuông ngân, luôn ăn sâu vào lòng người. Những lời đáp từ văn chương khúc chiết, nhưng lưu loát, khiến ai nghe cũng cảm thấy nhẹ nhàng, niềm hỷ lạc trào dâng trong tận cõi lòng trinh khiết.

Có một điều, giữa Thầy và Cố Hoà thượng Linh Sơn khác biệt đôi chút. Đó là, Cố Hoà thượng Linh Sơn có tài sử dụng những pháp phục trong mọi buổi lễ một cách thành thục nhuần nhuyễn. Thế nên, Cố Hoà thượng luôn là người dễ nổi bật hơn hết. Còn Thầy, chắc ảnh hưởng nếp sống thiền gia giản dị, nên trong bất cứ buổi lễ nào, trong vai trò chứng minh nào, con chỉ thấy Thầy sử dụng duy nhất một chiếc y chín điều, một chiếc áo tràng màu vàng đã ngã màu. Thầy không có hồng y, không có mão Hiệp chưỡng, Tỳ lư gì hết. Phải chăng, đó chính là nét nỗi bật riêng biệt của Thầy.

 

4. Chén Trà Lục Tổ nhiệm mầu:

Cung kính ngưỡng bạch Thầy, con nhớ rất rõ những lúc Thầy và Cố Hoà thượng Duy Lực trao đổi Thiền lý cũng như kinh nghiệm dịch thuật kinh luận tại phòng khách của Tu viện Huệ Quang.

Cố Hoà thượng Duy Lực là người thích uống trà, lại là người rất quý mến Thầy trong phương diện hoằng pháp và chuyên tu. Khi có việc, Cố Hoà Thượng thường đến Huệ Quang để thỉnh thị ý kiến của Thầy. Có khi Ngài mang trà đặc biệt bên Trung quốc để biếu Thầy. Nhưng không khi nào con thấy Thầy thưởng thức một mình. Thầy để dành đó, đợi khi Cố Hoà thượng vào đàm đạo, hay trao đổi những vấn đề liên quan đến việc mở Phật Thất cho Tứ chúng xa gần về tu, Thầy mới dạy con lấy những loại trà hiếm quý như: Long Tỉnh, Thiết Quan Âm, Nhân Sâm Trà pha ra cúng dường Hoà thượng.

 

Một lần, vào buổi sáng đẹp trời, Cố Hoà Thượng Duy Lực đến vấn an sức khoẻ Thầy. Ngài có mang một gói trà nhỏ, do các đệ tử người Hoa vừa cúng dường, đó là trà Lục Tổ. Kỳ này, chính tay cố Hoà Thượng pha trà, phần con chỉ nấu nước sôi mà thôi.

Ôi món trà Lục Tổ, cho đến giờ vẫn còn đọng lại trong tâm thức, trong thân thể của con. Hương vị lạ kỳ, không sao diễn tả hết được. Vừa có vị chát, nhưng lại ngọt nhẹ, qua đến cuống họng toả ra vị đắng, nuốt vào lại ngọt thêm chút nữa. Làm cho tâm hồn người thưởng thức sản khoái, nhẹ nhàng, lâng lâng khó tả, như trở về với chân tánh Di đà hay Thích Ca, Lục Tổ. Đúng là dòng Tào Khê vẫn bất tận nhiệm mầu, trong cỏ cây núi đá, trong tất cả cảnh vật thiên nhiên, con người và vũ trụ.

Càng uống trà, con thấy Thầy và Hoà thượng càng dịu dàng hơn trong mọi oai nghi tấn chỉ. Lời nói phát xuất ra như một chưởng lực tuôn trào, luôn rúng động tâm thức con, kéo con về với thực tại nhiệm mầu. Lát sau, Thầy và Cố Hoà Thượng lại chìm trong im lặng tịch như, thoát ra ngoài mọi ngã nhân bỉ thử. Ngồi bất động không nói gì hết, để đi vào thế giới minh nhiên mênh mông.

 

Thường người ta cứ lầm tưởng tổ sư thiền là phải đánh phá la hét và đập đổ, nhưng con thấy Thầy và Cố Hoà thượng lúc nào cũng từ ái nhẹ nhàng, ước muốn xương minh, xây dựng. Hai Ngài lúc nào cũng thể hiện sự hoà kính, luôn tìm phương cách hay, cho đạo Phật cữu trụ Ta bà, chúng sinh ân triêm pháp hỷ.

Tuy Thầy và Cố Hoà Thượng uống trà, nhưng tâm thể và cách thức đã vượt lên trên những thể cách uống trà bình thường.

 

Con đã cảm nhận, đối với Thầy và Cố Hoà Thượng, uống trà là cơ hội để dắt dẫn tâm hồn trở về tự tánh, soi chiếu mọi hành vi tạo tác của chính mình.

Uống trà để thấy tánh, để sống an lạc hạnh phúc với Như lai thường hằng, hiển bày ngay trong phút giây tĩnh tại. Uống trà để thấy được sự sống nhiệm mầu luôn hiển thị hiện tiền. Lối uống trà này là lối uống trà truyền thống của sư Tổ Huệ Năng, của Thầy và Cố Hoà Thượng Duy Lực năm nào, và những năm gần đây con đã học và đang thực hành cho đến bây giờ.

 

Cung kính ngưỡng bạch Thầy, hôm nay thành tâm ôn lại tất cả, 18 năm trời mà tưởng như một giấc chiêm bao mới đêm khuya. Những hình ảnh, những ngôn từ, những lời khai thị, huấn thị vẫn còn tiềm ẩn, vẫn còn lưu xuất trong trái tim con.

 

18 năm, ánh dung từ của Thầy vẫn hiển hiện như mới ngày nào. Mặc dù Thầy đã tĩnh lặng vào cõi thinh không, nhưng những bước chân của Thầy trên vạn nẻo đường trần vẫn còn in dấu. Ánh mặt trời vẫn còn sáng toả bên chiếc Bồ đoàn. Nắng hồng vẫn hằng xuyên thấu vào ngôi Tịnh thất của Thầy. Thoáng nhìn bề ngoài, tưởng như tất cả đã vào cõi lãng quên, nhưng thật sự không tan biến, không bị chi phối của vô thường tạm bợ.

Con ước nguyện, ngày nào đó, sẽ trở về Huệ Quang để quỳ dưới chân Thầy, thu mình lại trong ốc đảo tự thân rồi tiếp tục dấn thân theo con đường của Thầy. Sống ung dung phục vụ, cao khiết giữa cuộc đời. Sẳn sàng gác bỏ tất cả những bụi cát bên ngoài, tréo chân trên chiếc Bồ đoàn, để an nhiên trong thế kiết già phu toạ!

 

Mùa Vu Lan Báo Hiếu năm nay, con thật sự vui sướng và hạnh phúc khi viết những dòng chữ này để thành kính dâng lên giác linh của Thầy!

Theo dòng đời tương tục diệt sinh, mọi huyễn hoặc pháp trần sẽ rơi rụng, những cằn cỗi não phiền sẽ chết cứng. Những kỷ niệm, hình ảnh thân thương an bình luôn lấp lánh, hiện về trong tâm thức vô ngôn của người thị giả.

Dầu ở phương trời nào đi nữa, nhưng hình ảnh của Thầy vẫn mãi ở trong con cho đến hết đoạn đường sinh diệt.

Con xin lạy tạ ân đức sâu dày của Thầy, cúi xin Thầy chứng minh cho tấm lòng thành của con!!

 

T.K.Thiện Hữu

Chùa Phật Tổ, Úc Châu

Mùa Vu Lan Báo Hiếu-PL 2552; DL 2008

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

VẪN Ở BÊN CON SUỐT CUỘC ĐỜI

Kính dâng hương hồn Mẹ và thương tặng những người đã không may mất Mẹ!

 

Kính lạy Mẹ, đã 18 năm rồi, con bơ vơ mất Mẹ, cõi lòng trống vắng cô liêu bên cuộc trần hồng mỏi mệt. 18 năm con thèm hơi ấm, thèm tiếng hát ru ngọt ngào êm đềm như giọt nước thanh lương. 18 năm mất hẳn tình yêu thiêng liêng, tấm lòng cao quý dạy dỗ bảo ban tận tuỵ. 18 năm thiếu thốn tình Mẹ cao vời tợ biển đông xanh ngát. Đời con rất cần trái tim dịu mát, bàn tay che chở an bình, lời nói, hành động và cả sự im lặng nhiệm mầu của Mẹ, Mẹ ơi!

 

Kể từ ngày Mẹ tây quy Phật quốc, có nhiều khi, con không muốn làm gì hết. Con đã tự trách mình, không đủ khả năng để kéo dài sức khoẻ Mẹ hơn, không đủ nội lực để tuổi thọ của Mẹ thêm nhiều.

Con không muốn đóng góp gì thêm, bởi vì con đã không còn Mẹ trên trần gian này để nhìn ngắm từng bước chân con đi trong cuộc đời. Mặc dầu, mỗi bước chân con đi, ẩn chứa nhiều hạnh phúc thong dong. Con đã tủi hổ trách mình, khi không còn nhìn thấy dung từ tuyệt vời của Mẹ hiện hữu trên dương thế.

 

Mẹ ơi, con nhớ rất rõ buổi ban đầu xuất gia theo Thầy học đạo, Mẹ đã tạo mọi điều kiện thuận tiện từ vật chất đến tinh thần, để uốn nắn, khuyên nhắc hun đúc tâm hồn. Lúc đó, trong gia đình mình, Mẹ là người duy nhất bảo bọc, ngắm nhìn từng bước chân con đi trong trường đời lộng gió, cũng như cửa đạo mênh mông.

 

Khi còn sinh tiền, chính Mẹ là người giúp sức cho con, biến những tình cảm thiết tha cao quý, trở thành những năng lực vô biên, dắt dìu con bước tới. Chính Mẹ đã sẳn sàng ngã quỵ, chấp nhận những trở ngại khổ đau, gian nan thử thách của cuộc lữ, để bảo vệ cho con sinh tồn. Chính Mẹ đã gánh chịu mọi thiệt thòi, đương đầu với bao nghịch cảnh, để làm kẻ lót đường cho con bước đi.

Ôi, quả thật, Mẹ là Thánh nữ Quán Âm, luôn hiện hữu, khuyên nhắc khi con biếng lười, hay những lúc lạc hướng lầm đường, duyên theo pháp trần giả huyễn. Thiêng tình của Mẹ làm sao con có thể dùng bút mựt của trần gian diễn tả, làm sao con có thể dùng trí phàm phu cạn cợt nói cho tận nguồn!

 

Xin cảm ơn Mùa Vu Lan Báo Hiếu nhiệm mầu năm 2008 này! Xin cám ơn cuộc đời đã cho con những phút giây yên bình trong tâm thức, để con có dịp ngồi một mình suy nghiệm, ôn lại cuộc đời của Mẹ hiền!

Chính những phút giây này, con mới phát hiện một điều, là hình như Mẹ đã biết trước tương lai của con. Thế nên lúc nào con cũng thấy Mẹ vái van khẩn cầu chư Phật, Bồ tát chở che cho con luôn được yên ổn trong đời sống tu hành, luôn được an lạc với Thầy hiền bạn tốt, luôn được sự đùm bọc chở che của tất cả Phật tử xa gần.

 

Điều quan trọng mà Mẹ hằng mong ước và khuyên con là: “phải cố gắng đi cho trọn kiếp tu hành, sống sao cho vẹn toàn với mảnh y giải thoát, và luôn đặt trách nhiệm làm lợi ích an lạc cho bá tánh chúng sinh”. Con nghĩ, đó chính là ước nguyện duy nhất của đời Mẹ

 

Kính lạy Mẹ, cho đến bây giờ, con vẫn chưa hiểu nỗi vì sao hai cánh tay mềm mại, yếu ớt của Mẹ, lại có sức mạnh chở che những sóng to gió lớn của cuộc đời. Con vẫn chưa cảm nhận và hình dung ra, làm sao thân hình thon thả yếu gầy của Mẹ, lại có khả năng ngăn chặn mọi khốn khó dồn dập của cuộc lữ, nhất là khi Ông-Bà ngoại lìa trần rất sớm.

Mẹ đã nuôi con bằng nước mắt khổ đau, bằng mồ hôi lam lũ, bằng sức lực phấn đấu, bằng ý chí kiên cường, đương đầu với bao gian khó của một phụ nữ Việt gốc Hoa chân yếu tay mềm.

 

Mùa đông năm nay, lạnh hơn những năm gần đây. Giữa rừng hoang sơ quạnh vắng, nhìn lên bầu trời trong lúc hoàng hôn chuẩn bị ngơi nghỉ. Những chú chim đang đạp cánh trở về tổ ấm, sau một ngày vất vả vật lộn với đời sống. Hình ảnh nhiệm mầu này như lời nhắc nhở kẻ lữ hành, như tiếng chuông đánh thức lương tâm con người, đừng đắm chìm trong cặn bả lợi danh. Chính cảnh quang, khí trời trong khu rừng hoang dã này, là tiếng pháp không lời, xuyên thấu tâm hồn con. Tâm thức chợt xốn xang chạnh lòng, khi nghĩ nhớ về ân đức Mẹ hiền.

 

Bây giờ, hình ảnh Mẹ lại hiện về trong tâm trí của con. Vẫn đó nụ cười hiền in trong dòng đời thiên biến. Vẫn đó nét mặt dịu dàng, ẩn chứa cả biển tình thương vô bờ. Vẫn đó dáng đi khoang thai, luôn tha thứ lúc con phạm lỗi lầm. Vẫn đó bàn tay búp măng tuyệt đẹp, luôn bảo bọc chở che, từ lúc con còn nằm trong nôi.

Hình ảnh của Mẹ vừa lung linh thiêng liêng, nhưng cận kề gần gũi. Vừa ẩn hiện ảo mờ, nhưng dễ dàng cảm nhận. Vừa yên ả thì thầm, nhưng siêu việt thời gian không gian. Luôn hài hoà, lưu xuất trong từng mạch máu, từng suy nghĩ của đời con.

Vì vậy, 18 năm chưa trở thành cổ kính rêu phong. Cho dù dòng thời gian cuống phăng tất cả, nhưng đối với trái tim, hình ảnh dung dị của Mẹ, đối với những gì Mẹ đã ban trao, vun đắp, vẫn còn gần lắm, vẫn còn nguyên vẹn trong tâm hồn của con. Tấm lòng của Mẹ vẫn tinh khôi long lanh, cao khiết sáng ngời như mới hôm nào!

 

18 năm rồi mà ánh mắt của Mẹ vẫn đen huyền sáng tỏ, như trăng Trung thu tháng 8.

18 năm vật đổi sao dời, dòng đời diệt sinh chuyển hoá, nhưng tấm lòng của Mẹ vẫn còn ngự trị trong trái tim, vẫn thiêng liêng ngút ngàn tiếp tục giúp sức cho con.

18 năm phù du bụi cát, bao nhiêu điên đảo rơi rụng, bao nhiêu mảnh đời từ biệt, người người ra đi, không để lại dấu vết trong kiếp phong trần. Nhưng, những gì Mẹ trọn dành cho con, vẫn nguyên vẹn, không bị bào mòn bởi năm tháng thời gian. Thậm chí mùi da thơm của Mẹ, vẫn còn ươm ngát trong thịt da của con, mặt dầu có những lúc, con đã lăn lóc bên vũng bùn tanh hôi thế tục. 

 

Kính lạy Mẹ, xin Mẹ đừng lo, bây giờ con đã trưởng thành. Con biết sẽ làm gì và không làm gì trong tâm thức yên bình. Con đang cố gắng thực hành theo Mẹ, luôn mỉm cười với cuộc đời, với mọi người, để đến ngày cuối cùng, con sẽ mỉm cười với chính hơi thở của con, để vào cõi tịch nhiên mênh mông.

 

Mùa Vu Lan năm nay, xin cho con chấp tay kính thành dâng lạy Mẹ, để phần nào đền đáp ân nghĩa cao vời, phần nào dâng lời tạ tội muộn màng!!

 

Chùa Phật Tổ, Úc châu; 15- 08- 2008;

Nhằm ngày Rằm tháng 07 năm Mậu Tý

T.K.Thiện Hữu

 

LỜI SÁM HỐI MUỘN MÀNG

Kính dâng Giác Linh Thầy-Người đã đúc cho con từng giọt sữa chánh pháp!

 

Ngày ấy, cách đây 18 năm, khi từ trường Phật học Vĩnh Nghiêm trở về, tôi được hun tin từ quý Thầy, sư cô Diệu Phước và Phật tử Diệu Phú, Diệu Hoa chùa Giác Ngộ cho hay, ông cụ Kim Huê đã thâu thần viên tịch.

Đầu óc bần thần, cảm giác nóng rần từ con tim bắt đầu chạy toàn thân thể. Tôi ngồi bất động trong phòng phát hành một hồi lâu mới hoàn hồn tĩnh trí. Mặc dù giây phút này tôi đã chuẩn bị từ lâu, nhưng không biết sao, trong tôi vẫn còn mềm lòng, đau khổ trước sự ra đi của Hoà Thượng.

 

Kính bạch thầy, từ đó đến nay đã vỏn vẹn 18 năm trời. Mỗi lần muốn tập trung để suy nghĩ, ôn lại một vài kỷ niệm của Thầy đã trọn dành cho con, nhưng không làm sao viết được. Thậm chí những tháng ngày Vu Lan Báo Hiếu, con cũng lơ là xao lãng ân tình của Thầy- Người mà cả cuộc đời lúc nào con cũng ngưỡng vọng tôn thờ.

 

Kính bạch Thầy, ngày Thầy viên tịch, con có diễm phúc được sự tín nhiệm của quý sư huynh, giao phó cho con viết phần tiểu sử của Thầy, để sử dụng trong những ngày Tang lễ.

Con thành tâm cúi xin Thầy cho con sám hối! Vì đáng lý ra, cả cuộc đời hơn 70 năm hành hoá, công hạnh tuyệt vời hơn núi cao, tâm lực chất ngất ngàn trùng, mà con chỉ thức có một đêm để viết, thì quả là điều bất cẩn thiếu xót vô cùng. Lúc đó, tâm hồn quá non trẻ, cộng với sự tu hành chưa thâm mật, con đã bị tình cảm thế tục chi phối trước sự ra đi vĩnh viễn của Thầy. Đầu óc cạn cợt, suy nghĩ mông lung, tầm nhìn đơn giản nhất thời, cứ nghĩ viết phần tiểu sử của Thầy, là đã đóng góp công sức của mình dâng lên cúng dường giác linh và cũng là đáp đền công ơn giáo dưỡng của Thầy.

Sau những ngày Tang lễ đau buồn, con nghĩ vậy là đủ rồi, không cần viết gì thêm. Bởi vì, cuộc đời tu hành giải thoát của Thầy, đâu cần những thứ thế tục nhỏ nhoi như vậy. Nay tự vấn lương tâm mới thấy hổ thẹn vô cùng. Con cúi đầu xin Thầy hoan hỷ cho con thành tâm sám hối. Vì cả cuộc đời, Thầy đã bảo ban dạy dỗ cho con nên người, Thầy đã hy sinh ngược xuôi vất vả vì tương lai của con. Vậy mà, chỉ chấp bút viết phần tiểu sử, chỉ dành riêng cho Thầy một đêm, thì làm sao đủ, làm sao cân xứng?

Trong khi đó, đời Thầy là một bài pháp nhiệm mầu, là pho kinh nghiêm tâm linh để thực tập. Đời Thầy là một pho sách để nghiên tầm, là một cánh rừng thiên hoa để nhìn ngắm, và là một vầng trăng sáng để biết rõ lối về, mà chỉ vỏn vẹn có vài trang giấy thì làm sao nói hết?

 

Cung kính ngưỡng bạch Thầy, con nhớ rất kỹ, ngoài vai trò hướng dẫn tâm linh, trong thế giới nhiệm mầu thánh thiện, Thầy còn đóng vai hiền mẫu chăm sóc miếng ăn, giấc ngủ và chở che từng bước chân con đi trong cuộc lữ thăng trầm.

Sau năm 1975, quý Thầy và quý sư huynh hoàn tục rất nhiều, chùa phải trực tiếp đi làm ruộng, canh tác ở nơi xa. Vì vậy, số ít quý sư huynh lớn, ngoài thời giờ tu học tại bổn tự, nay lại phải gánh vác công việc đồng áng cấy cày, nhổ cỏ cho phân. Có khi từ sáng sớm đến chiều tối mới trở về. Vì thế, phần công phu chiều, lúc này chính Thầy phải đảm nhiệm. Con đã được diễm phúc luôn ngồi sau lưng hầu quạt, để nghe Thầy dâng lời cầu nguyện khi bóng ngả chiều tà.

Ôi tiếng kinh thanh thoát được Thầy trì tụng, mỗi ngày 6 thời, đặc biệt là những thời kinh giữa đêm, từ 10 giờ đến 12, hay thời công phu riêng biệt của Thầy từ 3 giờ đến 4 giờ sáng. Sau đó, Thầy đi đánh bảng báo thức, rồi đốt nhang cho chúng con chuẩn bị thời công phu khuya 4 giờ. Tất cả những thời kinh Thầy hành trì miên mật, xuất phát từ con tim trinh thành của bậc chân tu khả kính, đã rót vào con tim trong trắng thơ ngây của con. Chính đạo lực tu hành phi thường này như chất keo kết dính cuộc đời con với mái chùa quê rêu phong bên con sông nhỏ uốn quanh thanh bình. Thời gian vào chùa rất ngắn là con đã thuộc hết hai thời công phu, cũng như tất cả nghi thức cúng Ngọ, cúng  Quá đường, nghi thức Tịnh độ và những quyển luật tiểu. 

Rồi chính Thầy đã đóng chiếc ghế cao, bằng gỗ màu xanh để ẩm con đặt gọn gàng trong đó. Chính Thầy cầm tay con, dạy cách thức khai chuông bảng, dạy từng roi trống tán Án Tác, từng giọng điệu niệm Tứ thánh, Tán Lễ và Tự quy y, cũng như chuông trống Bát Nhã

 

Suốt cuộc đời Thầy, lúc nào cũng hy sinh nâng đở, dắt dẫn đưa con về đỉnh cao đạo đức làm người, giống như Thầy đã từng ẩm bồng con lên chiếc ghế màu xanh năm nào!

Ngoài ra, Thầy còn là người có tinh thần phóng khoáng, chấp nhận cho con đi học trường đời. Bởi vì con hiểu thâm tâm Thấy muốn con phải trở thành một người am tường tất cả nội điển lẫn ngoại điển, hay ít nhiều cũng phải hiểu biết về thiên văn, dịch học, lẫn y học.

Con còn nhớ, lúc đó kinh tế khó khăn eo hẹp, nhưng Thầy không tiếc bạc tiền dành dụm năm nào, đã mời vị Thầy thuốc Bắc ở tiệm Quảng Thái Hoà về chùa dạy con học thuốc Bắc, học viết chữ nho trên những tấm kiến. Nhưng, vì không phải là người thông minh đỉnh ngộ, cộng với tuổi trẻ ham chơi, con đã lười biếng không chịu thực tập, không chịu cố công dùi mài, và cuối cùng, nhân duyên trở thành thầy thuốc tương lai đến đây chấm dứt, con đã xin Thầy không học môn này.

 

Ít lâu sau, Thầy bảo con phải theo sư bác Huệ Thông, chùa Phổ Nguyện, sau Đình Thần Tân Quy Tây, Sa-đéc để học chữ nho và kinh luật.

Ôi, thời gian ở với sư bác Huệ Thông chẳng bao lâu, nhưng cũng đủ cho con hiểu được tấm lòng cao quý của Thầy, cũng đủ cho con thấy rõ ước ao của Thầy là muốn con trở thành người hữu dụng sau này trong Phật pháp. Nhưng vì tánh tình sư bác quá khó khăn, cổ hủ, cộng với sự công phu hành trì miên mật của Người, nên cuối cùng, con cũng đã làm Thầy thất vọng khi phải nửa đêm bỏ trốn trở về Kim Huê, tiếp tục nương bóng của Thầy. Kỳ này, con nghĩ là sẽ làm cho Thầy buồn giận. Ấy thế mà, Thầy không tỏ vẻ giận hờn trách móc hay quở phạt con chút nào.

 

Cung kính ngưỡng bạch Thầy, làm sao huynh đệ tụi con quên được, mỗi tối sau thời Tịnh độ hay mỗi sáng, sau thời Công phu khuya, chính tay Thầy đã nấu những món ăn miệt vườn nhà chùa nóng hổi, nào cháo nêm, nào các loại chè, nào khoai lan, khoai mì, khoai môn, bánh tráng nướng. Chính Thầy đã thường xuyên sai Thiện Ý hay huynh Thiện Lâm đi mua Cà phê ngoài chợ về để pha những ly cà phê đen, cà phê sữa, hay những ly sữa đậu xanh, đậu nành ngọt ngào cho các con lót lòng. Hay những khi Tết đến xuân về, Thầy đã đích thân trải chiếu xung quanh những ngôi tháp cổ sau Chùa, rồi chuẩn bị những món bánh tráng rất đặc sắc, ăn với chao chùa, cải xà lách Thầy tri sự trồng phía sau, để chúng con thưởng thức. Ôi Thầy bình dân và thương các đệ tử quá!

Nhớ lại những tháng ngày ấm êm, yên ả hạnh phúc như vậy mà con không biết trân quý giữ gìn. Đến bây giờ, thèm ăn những món do chính tay Thầy nấu nào có được đâu, mặc dầu, trong cuộc du phương đây đó, có nhiều người nhiệt thành tín tâm, đã thiết đãi những bữa cơm rất thịnh soạn. 

 

Rồi dòng thời gian nghiệt ngã lại đến, khi đủ đầy nhân duyên, Thầy đã gởi con lên ở hẳn trên Sài gòn, giao đứt cho sư bác Huệ Hưng. Từ đó, con không còn cơ hội thường xuyên trở về, không còn dám lơ đãng việc học tu nữa. Đời con đã bắt đầu một hướng mới, một tương lai mới nơi đây.


Thầy ơi, con nhớ rất rõ, giờ phút thiêng liêng tại nhà tổ Tu Viện Huệ Quang. Thầy đã đắp y trang nghiêm, cung thỉnh sư bác Huệ Hưng ngồi chính giữa, Thầy Minh Cảnh ngồi một bên. Thầy đã tác bạch, nói hết nỗi lòng và ước nguyện của mình, đau lòng giao đứt con cho sư bác Huệ Hưng để hướng dẫn dạy dỗ. Ánh mắt Thầy đỏ lên, rồi bắt đầu rưng rưng từng giọt lệ. Đó là lần đầu tiên trong đời con nhìn thấy Thầy khóc. Cho tới bây giờ, con cũng không hiểu tại sao Thầy khóc. Nhưng con tin chắc có lẽ do vì Thầy nghĩ sẽ không có dịp nhiều để chiều chiều nghe tiếng con công phu, hay sẽ không có dịp để ngắm nhìn con mỗi tối khi con ngủ bên cạnh Thầy?

 

Dòng đời mới đây đã 18 năm, 18 năm của một đệ tử không còn hình bóng tôn sư để tôn thờ. 18 năm không còn được vòng tay từ ái chở che của Thầy. Nhưng, con tin chắc một điều, là lúc nào Thầy cũng ở bên con, Thầy vẫn hiện hữu, vẫn vĩnh cửu, vẫn nhiệm mầu thiên thu!

 

Kính bạch Thầy, con thành tâm cảm niệm tất cả những gì Thầy đã ban bố hy sinh cho con. Tất cả những kỷ niệm tuyệt vời đó sẽ hiện hữu mãi trong tâm thức cho đến ngày công viên quả mãn.

 

Ôi, những lần tưởng như ngả gục trước sóng gió cuộc đời, thì hình ảnh thiêng liêng của Thầy xuất hiện. Như ngày nào, Thầy luôn khuyên nhắc, nâng đỡ từng bước chân yếu mền, để con tiếp tục bước tới. Luôn động viên con hãy vui vẻ chấp nhận mọi thử thách chông gai đến với mình, rồi biến tất cả trở thành niềm tin thánh thiện.

Chính những lúc đó, bàn tay từ ái của Thầy đã nâng niu cho con thoát khỏi trầm luân khổ luỵ. Chính cuộc đời bình dị đơn giản của Thầy đã cho con thấy rõ được cái uy dũng của kẻ xuất trần, cái hiên ngang của đấng nam nhi và sự thong dong của hành giả siêu thoát mọi buộc ràng của kiến chấp thường tình.

 

Cung kính ngưỡng bạch Thầy, nhân Mùa Vu Lan Báo Hiếu năm nay, con mạo muội viết lên đôi dòng kỷ niệm thô thiển này để phần nào nhớ lại ân đức cao vời của Thầy. Trước là tự quán lòng mình xem có xứng đáng là đệ tử mến yêu của Thầy không. Sau đó, luôn tự nhắc nhở chính mình sống sao cho tương hợp với những ước nguyện của Thầy lúc sinh tiền.

 

Rồi đây, trên vạn nẻo đường trần vui khổ, con sẽ tiếp tục ngao du với ngàn mây nội cỏ. Con sẽ bắt chước theo gương hạnh của Thầy, khước từ những cặn bã đua tranh, những thị phị nhân ngã, để xứng đáng với lòng tin yêu của Thầy, để xứng đáng là môn hạ của Tổ đình Kim Huê năm nào!

Con sẽ cố gắng tiếp tục là người biết sống trong tỉnh giác, biết ứng dụng mọi phương tiện để tiến tu giải thoát, hầu đền trả phần nào công ơn giáo dưỡng của Tam bảo từ tôn, của Đàn na thí chủ xa gần!

Tuỳ duyên hành xử, mang hạnh phúc an lạc đến cho cộng đồng và tha nhân là hạnh nguyện cao cả của Thầy, con sẽ tiếp tục vác lên vai rồi bước tới, bước tới, bước tới!!

 

Chùa Phật Đà, Úc Châu; Tháng 08 năm 2008-Phật lịch 2552

Mùa Vu Lan Báo Hiếu

T.K.Thiện Hữu

 

 

 

Huệ Quang Ngày Ấy!

Trích trong “Trên Những Đường Đi”

 

Tôi về Huệ Quang không có dự tính gì cả. Ngày đó, sau khi mãn khoá An cư tại Tuyền Lâm, tôi được may mắn lãnh thưởng. Người phát thưởng cao quý đó, chính là Hoà thượng chứng minh, là sư bác Huệ Hưng.

Như một bản chất riêng biệt, như nét đặc thù cố hữu, Hoà thượng rất thích mấy chú nhỏ thông minh, học giỏi, là mầm non Phật giáo. Ngài hy vọng và tin tưởng vào những thế hệ này, ước mong họ sẽ có cơ hội cống hiến cho đạo pháp và dân tộc.

 

Mới ban đầu, tôi không chịu về, vẫn tiếp tục ở Tuyền Lâm. Một mặt tôi muốn đi học ngoài đời, một mặt, vì ngoài này vui hơn trong kia, và điểm quan trọng cuối cùng là tôi rất sợ uy danh của Hoà thượng. Nhưng thầy Minh Cảnh cứ ghé Tuyền Lâm, bảo thầy Trụ trì thuyết phục để tôi về Huệ Quang hầu Hoà thượng, làm công quả trong đó. Cuối cùng, tôi phải chấp nhận về Huệ Quang trong một tâm thái hoang man lo sợ. Hoang man vì không biết có chịu nổi với tính tình khó khăn, giới luật nghiêm khắc của sư bác không? Hoang man vì ở đó chuyên tu, thời gian đâu đi học? Lo sợ vì không còn bay nhảy rày đây mai đó được nữa. Bạn bè, bổn đạo quen biết ít có cơ hội gặp nhau. Không ai dám vô Huệ Quang, vì Hoà thượng nổi tiếng giới luật nghiêm khắc.

 

Cuộc đời của Hoà thượng, suốt ngày chuyên tu và hết lòng đầu tư vào giáo dục, đào tạo thế hệ kế thừa.

Dù thời buổi khó khăn, Ngài vẫn khéo léo, quyết tâm mở lớp gia giáo, đào tạo Tăng-Ni tài đức. Lúc đó, ở Sài gòn những bậc Thầy mô phạm, hy sinh cao cả, cả gan làm liều duy trì các lớp học Phật pháp như: Hoà thượng Kim Cương, Hoà Thượng Bình Minh, Hoà thượng Huệ Quang và thượng toạ Nguyên Ngôn Ấn Quang.

Sau này, có sự xuất hiện của Thiền sư Duy Luật, người Hoa nhưng rất có duyên với cộng đồng Phật tử Việt nam. Ngài kết hợp với Hoà thượng Huệ Quang mở Thiền Thất, Phật thất tại Huệ Quang, rồi Từ Ân nữa. Nhờ những lớp này, mà đào tạo được một số Tăng-Ni có khả năng và tâm đức thừa hành Phật sự.

 

Mấy mươi năm chuyên tâm tu hành, hết Vạn An, Long An, Kim Huê, đến Liên Hải, Ấn Quang, Tập Thành, rồi Tuyền Lâm, Sơn Bửu, Huệ Quang, Vạn Hạnh

Ngài thức khuya dậy sớm, tĩnh toạ tham thiền hằng giờ, hằng ngày. Ngoài ra, còn thành tâm chung lo Phật sự ở các nơi khác.

Mặt trời hết mọc rồi lặn, hết sáng rồi tối, nhưng tâm hồn của thiền sư thì bất động, sáng mãi thiên thu.

Những tia nắng chiều bảng lảng, vấn vươn trên cây xoài, lá nhản, đã làm cho tâm hồn của đệ tử muôn phương, ngưỡng vọng qua về.

Sau này, dù tấm thân tứ đại đa mang tật bệnh, nhưng trái tim nhân bản, đầy ấp tình người, trái tim thương yêu ban trao của Hoà thượng cho Tăng-Ni, Phật tử thì tứ trí viên dung.

Ai muốn hỏi điều gì, Hoà thượng đều không từ chối giảng giải rõ ràng. Ai chê bai, từ chối, Ngài đều dang tay rộng lớn, bảo bộc đỡ nâng. Giống như người thợ mộc giỏi, tuy gỗ sằn sù, khúc mắc, nhưng vào tay thì trơn láng, dễ thương!

 

Hồi đó, con đường trước chùa chưa được quan tâm, chỉnh trang cho lắm, mặc dù nó đã có mặt lâu đời. Hết lớp đá đỏ, rồi tới đá xanh, rồi đất trộn nước, dơ dáy, bụi bậm không thể kể xiết. Có lẽ chỉ thích hợp cho xe đạp, xe thồ và người đi bộ. Còn những phương tiện giao thông cao cấp khác, thậm chí xe xích-lô có bửa không dám chạy vô.

Sau này, nhờ hảng Tôm Đông Lạnh toạ vị nơi đây, người ta mới nâng cấp, sữa đường, trán nhựa lại. Nhưng cũng phải trải qua nhiều lần. Vì mỗi lần như vậy, do nhựa đường Việt nam khan hiếm, nên xài tiện tặn, tráng mỏng như bánh tráng nhúng nước thôi. Nhựa đường mà tráng mỏng như bánh tráng nhúng nước thì dễ bể, dễ hư nếu gặp nước nhiều, nhứt là mùa mưa mỗi năm.

 

Sài gòn là một trong những chổ mưa nhiều, nước ngập nhiều. Tuy không như vùng đồng bằng sông Cửu long, nhưng rất gần gũi với Long An, Mộc Hoá. Có khi bà thuỷ lên du lịch dài hạn, là coi như dân Sài gòn tăng gia đi Bình Hưng Hoà nhiều. Thuỷ Tinh-Sơn Tinh ở đây nhiều hơn ở những thành phố văn minh khác. Hết mưa ngày lại mưa đêm, thậm chí mưa ngày lẫn đêm, nước ngập đầy đường, chết mấy người dân nghèo, lam lũ.

Con đường phía trước đâu tránh khỏi lượng nước mưa khổng lồ đổ xuống, thành thử nước ngập lề đường, tràn lên mé đường, đè trên mặt lộ, ngâm vài giờ đồng hồ, đủ để mấy miếng bánh tráng gặp nước, nức ra, bể ra hết. Đường bắt đầu có ổ chuột, ổ voi là thế!

 

Trước chùa, còn có đường cống, nước đen không thua gì nước của rạch Ông Buông ngoài Phú Lâm. Bao nhiêu nước phế thải từ các nhà máy xung quanh đổ xuống đây, kể cả mấy nhà máy bột giặt gần chùa Pháp Giới cũng dẫn nước về. Chảy đâu mặc kệ, đi vô nhà dân chứ đâu chảy ngược lại xí nghiệp mà lo! Dân nghèo đã chịu khổ, chịu cực suốt đời, đồng thời lại phải hít thở những mùi hôi, mùi thúi khủng khiếp. Vậy mà họ không bị ô nhiễm gì cả. Không nghe ai nám phổi, lủng ruột lủng gan gì. Chắc thân phận nghèo, trời cho cơ thể có hệ thống miễn nhiễm đặc biệt hơn dân nhà giàu? Hay là quy luật bù trừ của tạo hoá!

 

Huệ Quang, mang tiếng là ở Thành phố gấm hoa, nhưng đâu biết xài nước phong-tênh, mà muôn đời vẫn xài nước giếng. Ngay phong khách, ngồi nhìn ra là cái giếng bự, nước có quanh năm.

Ngày xưa còn múc từng thùng lên để xài, sau này, người ở đông, Phật tử tới lui tu tập nhiều, nhu cầu mỗi ngày mỗi cấp bách, Hoà thượng quyết định lắp đặt hệ thống máy bom, cho đở tốn công sức, nhưng sẽ tốn tiền, tốn điện, tốn đường dây dẫn lên cái bồn trên cốc của Hoà thượng và mấy cái lu bự xung quanh chùa.

 

Có lẽ cả xóm này đều xài nước giếng, mạnh ai nấy khoan giếng để làm rẫy và sinh tồn. Nhứt nước nhì phân mà! Nước đứng hàng số một, không có nước sử dụng, con người đâu thể tồn tại lâu dài được.

Hồi đó, trong miệt Tân Phú cũng đâu có nước phong-tênh. Nước chính phủ cố gắng chạy tới đầm sen là hết hơi, hết tiền, hết sức, chảy không nổi nửa. Ai muốn sống còn, tự động đào giếng, không cần phép tắc gì cả, chỉ cần tiền mướn đóng mà thôi. Hồi đó có mấy công ty nhỏ phía dưới chợ chòm hỏm gần chùa, quảng cáo lãnh phần việc này. Nói công ty cho hợp thời đại kinh tế phát triển, chứ đâu có ai trong đó. Gia đình, mấy cha con hè nhau đi làm, chia nhau kiếm sống, không ai bên ngoài dự vào được.

 

Dân làng vùng này uống nước giếng, tắm nước giếng, nấu nước giếng, đi vệ sinh cũng bằng nước giếng, tưới cây làm rẫy, làm kỷ nghệ gì cũng bằng nước giếng. Già trẻ bé lớn gì cũng uống nước giếng, ai nấy khoẻ mạnh, thông minh. Ông Sáu nói, nước giếng ngọt lịm là nhờ xương cốt từ mấy nhị tì Quảng đông, Tiều châu, và những khu mã lạng, mấy cái mã của bà chủ đất chảy tụ lại mội nước.

Nói vậy mà chẳng thấy ai sợ, người trong chùa không sợ, người ngoài chùa, đâu nghe mà sợ. Nhưng, dù có sợ đi nữa, cũng phải uống mà. Uống quanh năm suốt tháng, đâu thấy ai bệnh hoạn gì!

 

Phân nữa khu đất được khai thác để cất chánh điện, cái thất chuyên tu và khu nhà bên kia. Phần còn lại là khu tháp, mã mồ, lao sậy um tùm, cao hơn đầu người lớn, và cây mắc cở mọc bít lối đi.

Thậm chí ngay nhà bếp, còn có 2 cái mộ thật to, Hoà thượng không dám đụng tới. Để nguyên đó, dù muốn phát triển, xây cất rộng ra, cũng chưa đến lúc.

Phía sau, có một hàng lu, chừng 4 cái, bên cạnh có cây nhản thật to, cây xoài thật bự, đã cung cấp nhiều cho con người cúng Phật, cho chim quạ tận hưởng hương thơm, vị ngọt của trái cây miền sơn cước.

Sau khu mã, là mấy cây ổi, do chim chóc trồng. Không biết đi ăn ở đâu xa, lấy giống về đây trồng.

Trong chùa ảnh hưởng tinh thần vô ngã, hỷ xả, nên chim muông trồng mà con người hưởng sái, đặt biệt là mấy nhỏ trong chùa và lối xóm! Nhưng thỉnh thoảng, mấy dì Phật tử ở quận nội thành, đến đây lạy Phật, viếng thăm Hoà thượng, rồi tranh thủ viếng thăm mấy cây ổi luôn. Mạnh ai nấy hái, không ai la ai.

Chỉ trừ sau này, có cô Bảy, em ruột của Hoà thượng, không chịu lập gia đình, hay không ai thương vì tính tình khó khăn khúc mắc, hay giữ của. Giữ trong chùa chưa đủ, tranh thủ giữ mấy cây ổi, mấy gốc nhản bên ngoài. Thật đáng tội nghiệp!

 

Lúc tôi về đây, ngoài việc học hành, hầu hạ sư bác, không có việc gì làm, tuổi trẻ mà, sức như trâu, phải kiếm việc lao động chứ. Một ngày không làm là một ngày không ăn đó. Thành thử, tôi xin phép thầy Minh Cảnh cho khai thác khu đất còn lại, gần khu mả và gần mấy cây ổi phía sau, thầy đồng ý liền.

Một là cho sáng xủa mặt hậu, hay là cho mấy người nằm dưới những khu mộ đở cô đơn. Mỗi ngày, khoảng 9 giờ sáng, tôi đều ra để cắt cây, dọn đất. Ngày đầu tiên đã phát hiện lý do tại sao không ai dám đụng tới, dù khu đất không lớn lắm. Chỉ vì phía dưới toàn là đất sét, đá ông lâu đời, đào cuốc sao nổi. Toàn đất sét làm sao trồng hoa màu được. Đất sét chỉ để làm lò gạch như dưới Sa-đéc, hoặc làm đồ gốm, sành sứ như trên Biên Hoà, Đồng Nai thôi. Trời thương, cho chùa mỏ đất sét lớn, nhưng khai thác chưa đúng chỗ, vẫn còn thua lỗ, eo hẹp, thiếu trước hụt sau hoài.

 

Hơn một năm, trồng gì cũng chết, mất công kiệt sức, hết tiền mua giống, Hoà thượng dạy tôi, ‘nên trồng rau muống tàu chắc ăn, sáng luột chấm nước tương, ăn độn với cháo cũng bắt lắm ông à!’ Tôi nghe lời, dọn đất mần cỏ, lên líp kỷ càng, bắt đầu kế hoạch trồng rau muống như ước muốn của Hoà thượng.

Sau khi gieo hạt, đuổi kiến lửa, kiến hôi, tước tưới ngày ba bốn cử, tưới lầy lội, ngập hết mà rau muốn không chịu xanh tốt, mới ban đầu èo ọt, lần hồi đi tới héo tàn. Hoà thượng thấy vậy nói chơi: “chẳng lẽ số ông không trồng được cái gì, chẳng lẽ số ông chỉ lo học hành, chuyên tu thôi sao?”

 

Mấy đêm liền, ngủ gát tay trên trán, tìm giải pháp khắc phục những líp rau muống. Rau muống là thứ dễ trồng nhứt trên đời, mà trồng còn hỏng được, chẳng lẽ Hoà thượng nói đúng sao ta.

Tự nhiên, chợt nhớ tới phương cách trồng trọt của Thầy Trị Sự dưới Kim Huê, lấy phân người, trộn với tro trấu, đất sẽ sốp, rau muống có chất đạm, có lẽ sống và khoẻ ra. Nhưng vấn đề là, phân người ở đâu mà lấy, tro trấu ở đâu ra?

 

Nhớ có lần, mấy huynh bên chùa Pháp Giới khoe là bên đó làm bánh tráng, sản xuất hủ tiếu, nấu bằng trấu không hà. A, qua đó xin chắc ăn như bắp, lọt vô trung tâm sản xuất tro trấu rồi.

Tôi và chú Tâm qua đó xin tro trấu đem về, rồi rình rình lấy phân người phía sau mấy nhà vệ sinh của chùa, trộn lại với nhau, bỏ vào mấy líp rau muốn. Chỉ có vài ngày, hiệu quả thấy rõ, tốt khủng khiếp, mập thù lù, xanh đậm như tàu lá chuối! Hoà thượng và thầy Minh Cảnh đâu biết, khen nức nở, trồng kiểu này, đâu thua mấy ông Tàu xung quanh. Thôi cắt vô, nấu canh chua, xào chao, luột sống, không bỏ một cọng, cả chùa vui vẻ thưởng thức. Từ đó rau muống Huệ Quang vang danh, quý dì Phật tử đem về ăn thả cửa.

 

Có lần, buổi chiều đi xin tro trấu bên Pháp Giới, bận về, tôi lái chiếc xe ba bánh chất đầy, chú Tâm ngồi phía sau, hàn huyên tâm sự. Đột nhiên, nổi hứng, tôi hỏi chú có biết võ thuật không. Chú nói là hồi nhỏ có học, biết rất nhiều thứ, kể cả Thiếu lâm. Nghe xong, trong bụng tôi muốn thử thiệt hay giả, thử bằng cách nào đây? Tôi nói với chú Tâm, nếu thiệt có võ, thì buông tay lái, là tự động nhảy lên thay tôi cầm lái. Chú nói, chuyện nhỏ, có gì đâu mà thách đố, lải nhải hoài. Nghe vậy, tôi liền buông tay lái, nhảy xuống, mặc nhiên cho chiếc xe chạy lung tung ngoài đường lộ. Vì quá bất ngờ, chú đâu phản ứng kịp, ngồi phía sau la làng, xe đâm vào gốc trước nhà ông Tàu. Hên là không đụng sập nhà người ta, không ảnh hưởng đến ai. Chỉ có chú Tâm bị đập nhẹ vào chiếc xe, lảo đảo bước xuống, ngồi bệt bên vệ đường, cố gắng nhướng mắt nhìn, miệng mếu máo, lép nhép điều gì đó, tôi không nghe rõ. Đáp lại, chú nghe toàn tiếng vỗ tay tán thưởng của tôi. Từ đó, mới biết chú chẳng biết chút võ nghệ nào, nếu có chỉ có ‘võ cua’ thôi!

 

Nhớ lại, thời kỳ khó khăn chung, nhà dân đã cực khổ, nhà chùa còn khổ cực hơn. Nhưng nói vậy chứ khổ mà vui, cực thì có, nhưng tôi chẳng thấy khổ gì hết.

Chùa lúc đó, ngoài Hoà thượng, Thầy Minh Cảnh, thầy Thiện Đức, Sư huynh Quảng Nghiêm ra, tôi cũng thuộc loại có hạng lắm. Lớn hơn chú Tâm, chú Hùng, chú Minh, Chú Hạnh, chú Thuận và mấy nhỏ Phật tử xung quanh chùa. Được Thầy trụ trì tin tưởng, giao trách nhiệm đi xin và vận chuyển vỏ dừa, mạt cưa làm khí đốt cho chùa. Đỡ tốn tiền mua củi, để dành tiền thỉnh kinh, hay cất chùa mới sau này.

 

Thật tình, tôi đâu quen ai, chỉ chờ thầy trụ trì liên lạc, bắt mối xong, cho địa chỉ, hẹn ngày giờ, là tôi đạp xe ba-bánh tới lấy. Mấy chổ cho còn ra điều kiện, phải lấy hết và dọn dẹp sạch sẽ nửa.

Hai điểm vỏ dừa thường lấy là bên Lữ Gia và ngay trước Đại học Bách Khoa. Còn mạt cưa thì phải đi ngược ra ngoài quận 6, gần chùa Tuyền Lâm.

Thỉnh thoảng, thầy Minh Cảnh, dù là Chánh Đại Diện Phật giáo Tân Bình, cũng lớn lắm chứ, nhưng nhờ tu hành, bản ngã của thầy lại nhỏ xíu. Thầy thường phụ tôi chở vỏ dừa, mạt cưa về chùa.

Để đở hao hơi tốn sức, sau khi chất lên xe ba-bánh xong, sẳn có chiếc xế nổ Su-zu-ki nữ, đời hồi đó, thầy sẳn sàng rồ ga, thẳng giò đạp đằng sau, gọi là trợ lực, tiếp duyên cho chuyến vỏ dừa mau tới bến.

 

Dân Sài gòn ảnh hưởng văn hoá văn minh phương Tây nhiều, nên chẳng thèm đếm xỉa, quan tâm tới. Ai làm gì thì làm, miễn đừng ăn cướp, hay quậy phá, ảnh hưởng an ninh trật tự, ảnh hưởng đến đời sống riêng tư của người khác.

Lâu lâu mới gặp mấy tay xích-lô đã quắt cần câu, ngạc nhiên la lên: “Á, nhìn kìa, ông thầy chùa cha, đạp ông thầy chùa con kìa tụi bây ơi”.

Nghe la ỏm tỏi, nhìn lại không ai nghe, mình la mình nghe luôn!

 

Vỏ dừa, mạt cưa về đổ đống bên hong nhà Tổ, cạnh mấy cây nhản, Thầy trò còn phải chặt nhỏ, đem ra phía trước phơi cho khô mới chụm được.

 

Sân chùa hạn chế, phần trên ưu tiên cho công ty sản xuất nhang kế bên phơi, phần dưới mới tới của chùa.

Nói công ty sản xuất nhang cho bự, chứ phía trước chùa là gia đình Bà Tư, làm nhang bán lẻ. Chưa thấy chùa mua nhang của bà! Thỉnh thoảng, rằm lớn, chỉ thấy chị Bích sai nhỏ Hạnh đem vài bó nhang trầm qua cúng Phật.

Chị Bích là đứa con gái duy nhứt của bà, có ông chồng ít nói, hiền khô. Hai người sinh được một con gái mụ mẫm, tên Hạnh, thông minh học giỏi, có hiếu với gia đình.

Nhỏ Hạnh ngoài giờ đi học, tối ngày lẫn quẫn trong nhà như ở trong chùa, vì chùa và nhà có chung một cái cổng, một khu vực.

 

Gần đó không xa là khu vui chơi giải trí Đầm Sen-Nhà hàng Thuỷ Tạ. Nguyên thuỷ của Nhà hàng Thuỷ Tạ là Nhị Tỳ Triều Châu, và nguyên thuỷ của Viện Con Lai lại là Nhị Tỳ Quảng Đông. Nói ra tưởng đâu là chuyện đời xưa dữ lắm, nhưng chưa tới 30 năm, mà thế hệ trẻ hỏng chừng hỏng biết!

Thỉnh thoảng, đêm khuya tăm tối, tôi nghe tiếng than vãn thét gào, tiếng kêu la inh ỏi của những oan hồn phía sau khu gò mả, hay tuốt dưới Nhà hàng Thuỷ Tạ vọng về. Không biết họ chết từ bao giờ, nhưng đến nay vẫn chưa siêu độ.

Chắc họ kêu van cha mẹ gia đình, hay những người thân thiết, để tìm chút hương ấm trong những ngày rằm lớn. Hay họ cầu cứu tôi, ai mà biết được!

 

Thầy Minh Cảnh lúc nhỏ chuyên tâm học tu, đến lớn thành đạt, cũng từng làm Hiệu trưởng Trường Bồ Đề Long Xuyên, rồi Chánh Đại Diện Phật giáo Tân Bình chớ bộ. Lúc nhỏ thông minh, nên sư cụ Vạn Đức đặt là Minh Cảnh, chắc lấy chữ ‘tâm như minh cảnh đài’ trong bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng để gọi.

Thầy biết đủ thứ hết, không phải chỉ giỏi Văn-Sử-Địa, mà giỏi luôn về y học, châm cứu trị bệnh nữa.

Thầy hay đưa tôi đi ngoài mấy chỗ bán sách cũ cập lề đường. Đang chạy, tấp vô, mạnh ai nấy lựa. Thầy lựa sách y học, tôi lựa tiểu thuyết, thơ ca, luyện thi tốt nghiệp. Vì dân quê bình dân, mặt miền Tây, ngôn ngữ còn dính phèn, hơi thở chẳng cầu kỳ hoa lá, thích hợp với cách biểu đạt của nhà văn sông nước Hồ Biểu Chánh.

 

Thầy Minh Cảnh chức vụ lớn, địa vị cao, nhưng chưa bao giờ ra vẻ quyền cao chức trọng gì cả. Không thấy sắm xe hơi chạy, chẳng thấy có xe Hon-da đời mới để đi. Phương tiện duy nhứt vẫn là chiếc xe Shuzuki cà tàn.

Không biết ai cúng dường, hay phải tự sắm làm phương tiện đi đây đi đó. Thấy người này người nọ lên đời, nhưng đời thầy chỉ có chiếc Shuzuki thuộc loại đời cũ, chạy nhanh hơn rùa một chút. Có bửa, công việc gắp, sáng sớm dắt xe ra, đạp cả trăm lần mà không chịu nổ, mồ hôi nhuể nhải, bỏ buổi điểm tâm luôn.

Thầy Minh Cảnh có trình độ cao, nhưng lại ảnh hưởng nếp sống bình dân của vùng miền Tây nam bộ quá độ, nên một số ít người chuộng hình thức, ưa ồn ào không kính nể nhiều. Mà thật, bình dân đến mức trở thành lèn xèn, chính Hoà thượng Huệ Quang cũng kêu lên rầy hoài.

 

Thầy thuộc dạng đa nghệ, không chỉ giỏi văn chương, toán học, mà còn giỏi sữa xe, vạo vít lửa, thay bu-ri nữa kìa. Nhờ mua xe dỏm, hư hoài, sữa liên tục, nên trình độ thẩm định xe máy nổ cũng khá chính xác. Như những bậc tu hành, nhờ gặp gian nan trắc trở, nhờ gặp thử thách nghịch duyên, nhờ thẩm định đạo lý vô thường nhiều, mới dễ thành đạo chứng quả!

 

Nhớ hồi đó, năm đầu học Cơ Bản Vĩnh Nghiêm, mỗi ngày phải đạp xe từ Huệ Quang, dần dà thấm mệt. Thầy có ý khuyên tôi nên kiếm chiếc gắn máy để đi. Tôi bắt đầu tiện tặn dành tiền, rồi nhờ Thầy đi coi mua xe dùm. Hồi đó, đâu đủ tiền mua xe Hon-da đời mới, chỉ đủ mua được chiếc Chacly hoặc chiếc Mobilết cũ xì thôi. Mới ban đầu chạy ngon lắm, đặc biệt là những ngày trời khô nắng ráo. Nhưng khi gặp dông bão mưa to, đường xá ngập hết, nước ngập hơn phân nữa chiếc xe, chết bu-ri, nằm đường dài dài. Tôi đành lết về chùa bằng xe lôi cây chưng, mình ướt như chuột lột. Lạnh mà không lạnh, vì có hơi ấm tình thương của Hoà thượng và sự quan tâm hun đúc của thầy trụ trì.

 

Hơn 20 năm rồi, Huệ Quang thân thương vẫn còn nằm trong trí nhớ. Những bụi tầm vông cao ngút, mấy cây mận, cây dừa, đã đồng hành, chống chọi với bao mưa nắng, bụi bậm của cuộc đời, ngày đêm vẫn cho bóng mát.

Phía bên này, mát mẻ hơn, những gốc xoài trồng tiêu phía dưới, những gốc nhản tuổi thọ khá cao, giúp cho phong cảnh Huệ Quang đượm chút thanh u, toả mùi thoát tục. Con đường Hoà Bình quen thuộc dẫn vào khu vui chơi giải trí Đầm Sen hiện về.

 

Theo quy luật thành trụ, trải bao hưng phế vô thường, cảnh vật tuỳ duyên thay đổi, có thể thay đổi từng ngày, nhưng những ân nghĩa sâu nặng vẫn còn đó, vẫn trong lòng của Phật tử, Tăng-ni gần xa.

Hơn 20 năm qua, từ khi Ngài khai sơn viên tịch, tôi chưa có dịp ghé thăm. Nhưng cõi lòng lúc nào cũng trân trọng, kính quý từng kỷ niệm, nơi đó một thời đã là quán trọ bên đường, cho tôi dừng chân ngơi nghỉ.

 

Buổi chiều, ánh mặt trời thẹn thùng đỏ mặt, trước khi vẫy tay chào ngơi nghỉ, một chút nắng hanh hanh còn vấn vươn trên nóc chùa, hình ảnh Huệ Quang lung linh, huyền ảo hiện về. Mái chùa nhỏ đơn sơ, thấm đượm nghĩa tình, biết bao trái tim thiêng liêng đợi chờ còn đó, nhưng kẻ đăng trình vẫn cất bước ra đi. Phương trời thong dong, hay vùng trời tây mênh mông, đều là những hoá thành, có mặt trên những đoạn đường đi!!!

 

Úc Châu, năm 2011

T.K.Thiện Hữu

 

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập