B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 44. Kinh bốn pháp quán niệm
- Kinh Phật cho người tại gia
- Lời nói đầu
- A. Phần dẫn nhập
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 1. Kinh tiểu sử đức Phật
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 2. Kinh người áo trắng
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 3. Kinh mười nghiệp thiện
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 4. Phật nói kinh tám điều trai giới
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 5. Kinh nhân quả đạo đức
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 6. Kinh lời vàng Phật dạy
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 7. Kinh soi gương nhân cách
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 8. Kinh phân biệt nghiệp báo
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 9. Kinh định luật nghiệp
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 10. Kinh nghiệp tạo sai biệt
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 11. Kinh chuyển hóa nghiệp chướng
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về đạo đức: 12. Kinh phước thế gian
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 13. Kinh thiện sinh
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 14. Kinh phước đức
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 15. Kinh tránh xa cánh cửa bại vong
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 16. Kinh bảy loại vợ
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 17. Kinh bốn ân lớn
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 18. Kinh mọi người bình đẳng
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 19. Kinh không có giai cấp
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 20. Kinh sống trong hòa hợp
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 21. Kinh hóa giải tranh cãi
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 22. Kinh hòa hợp và hòa giải
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 23. Kinh chuyển luân thánh vương
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 24. Kinh đức hạnh của vua và tu sĩ
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 25. Kinh quốc gia cường thịnh
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về gia đình, xã hội và chính trị: 26. Kinh Hiền Nhân
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 27. Kinh chuyển pháp luân
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 28. Kinh mười hai nhân duyên
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 29. Kinh chánh tri kiến
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 30. Kinh ba dấu ấn thực tại
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 31. Kinh thực tập vô ngã
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 32. Kinh nhận diện vô ngã
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 33. Kinh chuyển hóa cái tôi
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 34. Kinh nền tảng đức tin
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 35. Kinh kiến thức và trí tuệ
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 36. Kinh thuyết minh và xác minh
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 37. Kinh bảy điều nên biết
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 38. Kinh ẩn dụ về bảy hạng người dưới nước
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 39. Kinh tham ái là gốc khổ đau
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 40. Kinh dụ ngôn người bắt rắn
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 41. Kinh lời Phật qua các con số
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về triết lý: 42. Kinh nương tưạ ai khi Phật qua đời?
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 43. Kinh cốt lõi thiền tập
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 44. Kinh bốn pháp quán niệm
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 45. Kinh quán niệm hơi thở
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 46. Kinh các cấp thiền quán
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 47. Kinh bốn loại hành thiền
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 48. Kinh ẩn dụ về thành trì
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 49. Kinh sống trong hiện tại
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 50. Kinh căn bản tu tập
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 51. Kinh tu các pháp lành
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 52. Kinh phát tâm bồ đề
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 53. Phật nói kinh bốn vô lượng tâm
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 54. Kinh từ bi và hồi hướng
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 55. Kinh tám điều giác ngộ của bậc đại nhân
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về thiền và chuyển hóa: 56. Kinh bảy cách dứt trừ khổ đau
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về tịnh độ: 57. Kinh Phổ Môn
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về tịnh độ: 58. Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Phật Dược Sư
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về tịnh độ: 59. Kinh A Di Đà
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về tịnh độ: 60. Kinh Sám hối sáu căn
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về tịnh độ: 61. Kinh Sám hối hồng danh
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về tịnh độ: 62. Phật Nói Kinh Vu Lan Bồn
- B. Phần chánh kinh - Các kinh về tịnh độ: 63. Phật Nói Kinh Báo Hiếu Công Ơn Cha Mẹ
- C. Phần sám nguyện
- D. Phần phụ lục - Phụ lục 1: Xuất xứ các bài Kinh và sám nguyện
- D. Phần phụ lục - Phụ lục 2: Các ngày lễ trong hai truyền thống Phật giáo
- D. Phần phụ lục - Phụ lục 3: Các nghi thức và kinh tụng
44. KINH BỐN PHÁP QUÁN NIỆM
***
Tôi nghe như vầy. Hồi ấy Thế Tôn lưu trú tại tỉnh Kiềm-ma-sắt-đàm[1] thuộc nước Kuru.[2] Một hôm Thế Tôn gọi các Tỳ-kheo, dạy cách quán niệm: “Có một độc lộ có thể tịnh hóa tất cả chúng sanh, vượt khỏi khổ đau, diệt trừ sầu não, thành tựu tuệ giác, chứng ngộ Niết-bàn.” Con đường đó là bốn điều quán niệm:[3] Quán thân là thân,[4] quán thọ là thọ,[5] quán tâm là tâm,[6] quán pháp là pháp,[7] với lòng nhiệt tâm, tỉnh thức, chánh niệm, nhờ đó diệt trừ tham đắm, sầu bi, không còn khổ đau. O
QUÁN THÂN NHƯ THÂN
Này các hành giả, sau đây là cách quán thân như thân. Ở đây, hành giả đi đến khu rừng, hoặc ở gốc cây, hoặc ngôi nhà trống, ngồi thế hoa sen,[8] giữ lưng ngay thẳng, chánh niệm trước mặt, tỉnh thức rõ ràng hơi thở ra vào.
Thở vào hơi dài, ý thức rõ ràng: “tôi đang thở vào một hơi thở dài.” Thở ra hơi dài, ý thức rõ ràng: “tôi đang thở ra một hơi thở dài.” Thở vào hơi ngắn, ý thức rõ ràng: “tôi đang thở vào một hơi thở ngắn.” Thở ra hơi ngắn, ý thức rõ ràng: “tôi đang thở ra một hơi thở ngắn.”
Khi thở hơi vào, ý thức[9] toàn thân. Khi thở hơi ra, ý thức toàn thân. O
An tịnh toàn thân, tôi đang thở vào. An tịnh toàn thân, tôi đang thở ra.
Đó là cách sống quán thân là thân ở trong ở ngoài,[10] vừa trong vừa ngoài. Hoặc quán hiện tượng sinh khởi của thân. Hay quán hiện tượng hoại diệt của thân. Hay quán hiện tượng vừa sinh vừa diệt của thân thể này. Có thân thể này, hành giả an trú chánh niệm tỉnh thức, hướng về chánh trí, không hề chấp thủ vật gì trên đời. O
Lại nữa, hành giả đi biết mình đi, đứng biết mình đứng, ngồi biết mình ngồi, nằm biết mình nằm. Ý thức rõ ràng vận hành của thân trong mọi động tác cũng như cử chỉ.
Lại nữa, hành giả ý thức rất rõ tư thế động tác của thân thể mình: Đi tới đi lui, ngó qua ngó lại, co duỗi tay chân, cúi xuống ngẩng lên, mặc áo đắp y,[11] cầm bát khất thực, ăn uống nhai nếm, đại tiện tiểu tiện, đi đứng nằm ngồi, nói năng im lặng, ngay cả thức ngủ. O
Lại nữa, hành giả quán sát thân này, từ bàn chân lên cho đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da, chứa đầy nhơ nhớp. Trong thân này có: Tóc, lông, móng, răng; da, thịt, gân, xương; thận, tủy, tim, gan; hoành mô, lá lách; phổi, ruột, màng ruột; bụng, phân, mật, đàm; mủ, máu, mồ hôi; mỡ thịt mỡ da; nước mắt, nước miếng; nước mủ, nước tiểu; và nước khớp xương. Phải quan sát rõ như người mắt sáng mở bao ngũ cốc, thấy rõ các loại: lúa gạo, mè, bột, đậu xanh đậu đen, hạt lớn hạt nhỏ.
Lại nữa, hành giả quán sát thân này thông qua vị trí cũng như thứ tự của các yếu tố hình thành sắc thân: Đất, nước, lửa, gió. Cũng giống như cách đồ tể khéo tay cắt từng chi phần của con bò lớn tại ngã tư đường, ai cũng thấy rõ. O
Lại nữa, hành giả quán sát thi thể người chết nằm trong nghĩa địa vài ngày. Thi thể trương sình, xanh rồi tím bầm, dần dần thối rữa. Cái thi thể ấy có thể sẽ bị quạ hay diều hâu, kên kên, chó sói, hay loài giả can hoặc các côn trùng ăn và cấu xé v.v... Cũng có tình huống thi thể còn nguyên, xương thịt gân da vẫn còn dính nhau. Cũng có trường hợp, chỉ còn bộ xương, thịt gân và máu đều đã rời rã, xương tay, xương chân, xương ống, xương chậu, xương sống xương sọ và xương bắp vế. Cũng có trường hợp, thi thể thành xương, trắng như vỏ ốc, hoặc tan thành bột, do để lâu năm. Hành giả thấy rõ bản chất thân này vốn là như vậy, như một quy luật, không thể khác hơn.
Đó là cách thức hành giả thực tập quán thân là thân ở trong ở ngoài,[12] vừa trong vừa ngoài. Hoặc quán hiện tượng sinh khởi của thân. Hay quán hiện tượng hoại diệt của thân. Hay quán hiện tượng vừa sinh vừa diệt của thân thể này. Có thân thể này, hành giả an trú chánh niệm tỉnh thức, hướng về chánh trí, không hề chấp thủ vật gì trên đời. O
QUÁN THỌ LÀ THỌ
Này các hành giả, sau đây là cách hành giả quán sát dòng chảy cảm xúc chỉ là cảm xúc. Ở đây hành giả có cảm xúc vui thì biết rõ ràng: “tôi có cảm xúc hạnh phúc trong mình;” có cảm xúc khổ thì biết rõ ràng: “tôi có cảm xúc đau khổ trong mình;” khi có cảm xúc không khổ không vui thì biết rõ ràng: “tôi có cảm xúc trung tính trong mình.” Tương tự, hành giả tuệ tri rất rõ cảm xúc khổ vui, cảm xúc trung tính, loại thuộc thân thể, loại thuộc tinh thần, phân định rõ ràng trong từng cảm xúc.
Như vậy, hành giả quán dòng cảm xúc ở trong ở ngoài, vừa trong vừa ngoài.[13] Hoặc quán sinh khởi của dòng cảm xúc. Hay quán hoại diệt của dòng cảm xúc. Hay quán hiện tượng vừa sinh vừa diệt của dòng cảm xúc. Có cảm xúc này, hành giả an trú chánh niệm tỉnh thức, hướng về chánh trí, không hề chấp thủ vật gì trên đời. O
QUÁN TÂM LÀ TÂM
Này các hành giả, sau đây là cách hành giả quán sát tâm chỉ là tâm. Ở đây, hành giả thực tập chính niệm: Với tâm có tham, biết tâm vướng tham; với tâm có sân, biết tâm vướng sân; với tâm có si, biết tâm vướng si. Với tâm không có tham, sân và si thì tuệ tri rằng tâm thoát ba độc.[14] Tương tự, hành giả áp dụng tuệ tri với các tâm lý: Chuyên chú, tán loạn; quảng đại, nhỏ nhoi; hữu hạn, vô thượng; định tĩnh hay động; giải thoát hay trói.
Như vậy, hành giả quán sát cái tâm ở trong ở ngoài, vừa trong vừa ngoài.[15] Hoặc quán sinh khởi, hoại diệt của tâm. Hay quán hiện tượng vừa sinh vừa diệt của chính tâm ấy. Có cái tâm này, hành giả an trú chánh niệm tỉnh thức, hướng về chánh trí, không hề chấp thủ vật gì trên đời. O
QUÁN PHÁP LÀ PHÁP
Này các hành giả, sau đây là cách hành giả quán sát pháp chỉ là pháp.[16] Ở đây, hành giả có thể quán sát với năm triền cái. Nội tâm có dục thì biết rõ ràng “tâm tôi có dục.” Nội tâm không dục thì biết rõ ràng “tâm không ái dục.” Hành giả nhận diện có loại ái dục trước nay chưa có nay mới sinh khởi, hoặc trước đã có nay được đoạn diệt, hoặc đã diệt rồi thì không tái hiện. Với cách quán này, hành giả thấy rõ bốn triền cái khác: Tâm lý sân hận, hôn trầm thuỳ miên, trạo hối và nghi.
Như vậy, hành giả thực tập quán sát pháp chỉ là pháp với năm triền cái, ở trong ở ngoài,[17] vừa trong vừa ngoài.[18] Hoặc quán sinh khởi, hoại diệt của pháp. Hay quán hiện tượng vừa sinh vừa diệt của các pháp ấy. Có các pháp này, hành giả an trú chánh niệm tỉnh thức, hướng về chánh trí, không hề chấp thủ vật gì trên đời. O
Tương tự, hành giả có thể quán sát pháp chỉ là pháp với năm thủ uẩn. Hành giả tuệ tri: “Đây là sắc thân, đây là nguồn gốc tạo ra sắc thân, đây là trạng thái vắng mặt sắc thân và đây là đường đưa đến tình trạng vắng mặt sắc thân”. Với cách quán này, hành giả thấy rõ bốn thủ uẩn khác: Thọ, tưởng, hành, thức.
Tương tự, hành giả có thể quán sát pháp chỉ là pháp với sáu trần cảnh. Hành giả tuệ tri: “mắt và hình sắc tiếp xúc với nhau, tai với âm thanh, mũi với các mùi, lưỡi với các vị, thân với xúc chạm, ý với các pháp, phát sinh kiết sử.” Hành giả biết rõ loại kiết sử nào, trước nay chưa có nay mới phát sinh, kiết sử đã sinh nay được đoạn diệt, kiết sử đã diệt không còn tái phát. O
Tương tự, hành giả có thể quán sát pháp chỉ là pháp với bảy giác chi. Hành giả tuệ tri: “với tâm có niệm, biết rõ ràng là tâm tôi có niệm; với tâm thất niệm, biết rõ ràng là tâm tôi thất niệm.” Hành giả biết rõ loại chánh niệm nào, trước nay chưa có nay mới phát sinh, chánh niệm đã sinh nay được thành tựu. Tương tự áp dụng sáu giác chi khác: Trạch pháp, tinh tấn, hỉ và khinh an, định và hành xả.
Tương tự, hành giả có thể quán sát pháp chỉ là pháp với bốn thánh đế. Hành giả tuệ tri: “Đây chính là khổ, đây là gốc khổ, đây là hết khổ và đây chính là con đường diệt khổ”. Như vậy, quán sát pháp chỉ là pháp, ở trong ở ngoài, vừa trong vừa ngoài. Hoặc quán sinh khởi, hoại diệt của pháp. Hay quán hiện tượng vừa sinh vừa diệt của các pháp ấy. Có các pháp này, hành giả an trú chánh niệm tỉnh thức, hướng về chánh trí, không hề chấp thủ vật gì trên đời. O
Này các hành giả, ai tu tập được bốn pháp quán niệm trong vòng bảy năm, có thể chứng đắc: Chánh trí hiện tại; nếu còn dư y, chứng quả Bất hoàn. Thực ra, thời gian tu tập quán sát có thể ít hơn, chỉ cần một năm, hoặc là bảy tháng, thậm chí bảy ngày, nếu đúng phương pháp, vẫn chứng đắc được hai quả vị trên.
Khi nghe đức Phật giảng giải phân tích về bốn niệm xứ, tất cả mọi người vô cùng hoan hỷ, phát nguyện thực hành, truyền bá Kinh này.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật O
[1]. Phiên âm từ tiếng Pali “Kammassadhamma.”
[2]. Hán phiên âm là Câu-lâu.
[3]. Hán: tứ niệm xứ.
[4]. Thường được dịch là “quán thân trên thân.”
[5]. Thường được dịch là “quán thọ trên các cảm thọ.”
[6]. Thường được dịch là “quán tâm trên tâm.”
[7]. Thường được dịch là “quán pháp trên các pháp.”
[8]. Thường gọi là “ngồi kiết già.”
[9]. Thường dịch là “ý thức.”
[10]. Thường dịch là “quán thân trên nội thân hay quán thân trên ngoại thân.”
[11]. Nguyên tác là y tăng-già-lê (Sanghati).
[12]. Thường dịch là “quán thân trên nội thân hay quán thân trên ngoại thân.”
[13]. Tức nội thọ và ngoại thọ.
[14]. Tức tham, sân, si.
[15]. Tức nội tâm và ngoại tâm.
[16]. Ở đây có nghĩa là “đối tượng nhận thức của tâm.”
[17]. Tức nội pháp và ngoại pháp.
[18]. Tức nội tâm và ngoại tâm.
- Giải Thích Giới Luật Và Oai Nghi Của Sa Di Thích Nhật Từ dịch và chú thích
- Nghiên cứu giới Tỳ-kheo của Thượng tọa bộ: Đối chiếu với năm phái luật Phật giáo Lý Phụng My - Việt dịch: Thích Nhật Từ
- Giới Sa-di-ni, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn Thích Nhật Từ
- Giới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn Thích Nhật Từ
- Giới bổn Tỳ-kheo-ni của Luật Tứ phần Thích Nhật Từ
- Kinh Phật cho người tại gia Thích Nhật Từ
- Cẩm nang thực tập chánh niệm và khuyến tu Thích Nhật Từ
- Tám điều giác ngộ - Ứng dụng kinh Bát Đại Nhân trong cuộc sống Thích Nhật Từ
- 14 điều Phật dạy Thích Nhật Từ
- Chữ hiếu trong đạo Phật Thích Nhật Từ
- Kinh Phật cho người mới bắt đầu (Cẩm nang học Phật cho giới trẻ và người bận rộn) Thích Nhật Từ
- Gia đình, xã hội và tâm linh - Ứng dụng kinh thiện sanh trong cuộc sống Thích Nhật Từ
- Tinh Hoa Trí Tuệ - Ứng Dụng Bát Nhã Tâm Kinh Trong Cuộc Sống Thích Nhật Từ
- Đừng vì tiền phụ nghĩa, quên tình Thích Nhật Từ
- 100 điều đạo đức tại gia Thích Nhật Từ
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
- Khóa tu và nghi thức Xuất gia gieo duyên
- Từ điển Phật giáo Việt Nam: Các mục từ đã làm xong
- Quy cách phiên dịch và biên tập Tam tạng thánh điển Phật giáo Việt Nam
- Thư mời tham gia biên soạn "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Từ điển Phật học vần A-Z (2010 mục từ, ngày 02/1/2023)
- Từ điển Phật giáo (50 từ gợi ý trong tổng số 3500 mục từ đã hoàn tất) - Một số mục từ Văn học Phật giáo Việt Nam gợi ý
- Quy cách biên soạn "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Dự thảo các nhóm biên soạn bộ "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Bản sắc hóa và quốc tế hóa vị thế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Khái quát Nội dung Kinh Trung Bộ
Được quan tâm nhất
Kinh Phật cho người tại gia 30/09/2014 13:27:00 |
14 điều Phật dạy 26/09/2014 17:22:00 |
Bình luận (0 đã gửi)
Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)