Tiếng Việt thời LM de Rhodes - vài nhận xét về cách dùng thì hiện tại/tương lai/quá khứ (phần 16)

Đã đọc: 1426           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

 

Phần này bàn về cách dùng thì (tiếng Anh tense ~ temps tiếng Pháp) vào thời các LM de Rhodes và Maiorica sang truyền đạo ở An Nam cho đến thế kỉ XX. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false . Các chữ viết tắt khác là HV (Hán Việt), CNNAGN (Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa), NCT (Nguyễn Cung Thông), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), P (tiếng Pháp), ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị), A (tiếng Anh), L (tiếng La Tinh), PG (Phật Giáo), CG (Công Giáo), VN (Việt Nam), CQN (Chữ Quốc Ngữ), TQ (Trung Quốc), BK (Bắc Kinh), TK (thế kỉ), các bản chữ Nôm của LM Maiorica như CTTr (Các Thánh Truyện - tháng 12), KNLMPS (Kinh Những Lễ Mùa Phục Sinh), TCTM (Thiên Chúa Thánh Mẫu). Tương quan ngữ âm HV và Việt ghi trong bài không nhất thiết khẳng định nguồn gốc Việt hay Hán Cổ của chúng, cần nhiều dữ kiện hơn để thêm chính xác. Trang/cột/tờ của VBL được ghi xuống để người đọc dễ tra cứu thêm. Các cách đọc phiên thiết trình bày theo thời gian (lịch đại): từ thời Hán đến thế kỉ XVII (Tự Vị, Chính Tự Thông) cho đến giọng BK hiện nay so sánh với các phương ngữ khác cũng như âm HV (đồng đại). Dấu hoa thị * đứng trước một âm cổ phục nguyên (reconstructed sound), không nên lầm thanh điệu hay chỉ số đứng sau một âm tiết và số phụ chú. Người viết cũng xin được cảm ơn anh Nguyễn Trọng Thành (đang làm việc cho đài RFI, Pháp) đã có những buổi điện đàm thật chí tình về chủ đề thời gian trong tiếng Việt (đặc biệt qua cách dùng sẽ), và là một tác động lớn trong quá trình soạn bài viết phần 16 này. Hi vọng các cách nhìn tiếng Việt (đồng đại) từ Úc châu và Âu châu sẽ cho ra nhiều kết quả thú vị khi xem lại ngữ pháp tiếng Việt từ trục thời gian (lịch đại).

1. LM de Rhodes ghi lại các thì khá rõ trong BBC và VBL (1651)

Trong BBC phần "Về các động từ", LM de Rhodes đã phân biệt năm cách dùng thì (thì ~ tempus tiếng La Tinh ~ tense/A) bằng phương pháp thêm phụ từ (particula tiếng La Tinh ~ tiếng đệm vào) vào các động từ như đã, sẽ, mắc - VBL thì ghi thêm phụ từ (particula tiếng La Tinh ~ tiếng đệm vào ~ particle/A) đang (đang ăn, còn đang cày) để diễn tả hành động đang xẩy ra (nhưng lại không được BBC ghi lại[2]). Sự phân biệt trên dựa hoàn toàn vào ngữ pháp La Tinh, thuộc ngữ  hệ La Mã[3] (Romance language/A), mà LM de Rhodes đã từng được huấn luyện rất kỹ trước khi khởi hành qua Viễn Đông để giảng đạo. Có nhiều phương pháp thể hiện các thì trong ngữ pháp: từ cách chia động từ (conjugation of verb, hay thay đổi hình thái của động từ - như trong ngữ hệ Ấn-Âu) đến thêm vào một số phụ từ để chỉ trạng thái thời gian (quá khứ/tương lai như tiếng Trung Hoa, Nhật, Việt ...). Ta hãy xem qua các cách thể hiện các thì này vào thời LM dòng Tên Alexandre de Rhodes qua An Nam truyền đạo.

1.1 Cách chia thì trong tiếng La Tinh

Bảng tóm tắt sau cho thấy cách chia thì trong tiếng La Tinh: trục ngang cho thấy thời gian (time/A - quá khứ/past, hiện tại/present và tương lai/future), còn trục đứng cho thấy thể (aspect/A - tình trạng của hành động như hoàn thành hay chưa hoàn thành, lặp lại ...v.v…).

 

 

PAST TIME

PRESENT TIME

FUTURE TIME

IMPERFECTIVE ASPECT

(Past) Imperfect

(Imperfect) Present

(Imperfect) Future

SIMPLE ASPECT

Simple Past

Present

Future

PERFECTIVE ASPECT

Pluperfect (past perfect)

(Present) Perfect

Future Perfect

 

Thí dụ như tiếng La Tinh có động từ canere hay cano là ca (hát, gốc của động từ tiếng Pháp chanter), có những dạng tuỳ theo chín (9) thì gồm thời gian và thể như bảng tóm tắt sau - để ý sing là động từ tiếng Anh (nghĩa là ca/hát) không theo quy tắc[4] chung trong các dạng thuộc quá khứ (thêm hậu tố/suffix -ed vào sau động từ) mà trở thành sangsung.

 

 

quá khứ

HIỆN TẠI

TƯƠNG LAI

CHƯA HOÀN THÀNH

(Past) Imperfect
cantabam
"I was singing"

(Imperfect[5]Present
canto (tôi đang ca)
"I am singing"

(Imperfect) Future
cantabo
"I will be singing"

THỂ ĐƠN

Simple Past
cantavi (tôi đã ca)
"I sang"

Present
canto (tôi ca)

"I sing"

Future
cantabo (tôi sẽ ca)
"I will sing"

HOÀN THÀNH

Pluperfect
cantaveram
"I had sung"

(Present) Perfect
cantavi
"I have sung"

Future Perfect
cantavero
"I will have sung"

 

1.2 Năm thì của tiếng Việt theo LM de Rhodes

Khi học tiếng Việt, các giáo sĩ nhận ra ngay các từ đã, đang và sẽ dùng cho quá khứ, hiện tại và tương lai - hay là ba thì cơ bản. Sau đó là thì quá khứ hoàn thành (preterite[6] perfectum/L) và thì quá khứ chưa hoàn thành (preterite imperfectum), những khác biệt dễ nhận ra khi so sánh ngữ pháp La Tinh và Việt là động từ tiếng Việt không thay đổi trong các thì này. BBC ghi năm thì của tiếng Việt:

a) thì hiện tại (præsens/L), không cần phải thêm phụ từ nào và đôi khi cũng có như "Tôi mạc việc bây giờ". Nhận xét của BBC đáng chú ý: không cần phải thêm từ nào cho thì hiện tại. Thật ra, nhận xét này cũng có thể ứng dụng cho thì tương lai và quá khứ: tác giả Gabriel Aubaret đưa ra một thí dụ[7] "Ngày mai tôi đi" trong Grammaire Annamite, trang 42 (1867):

b) thì quá khứ chưa hoàn thành (præt. imperfectum/L) "Hôm qua tôi mạc chép thư, nói chẳng được" (mạc/BBC là mắc/VBL, VBL trang 444 cũng cho thí dụ "mắc việc")

c) thì quá khứ hoàn thành (pært. perfectum/L) như "đã về", "đã nói". VBL còn thêm cách dùng "đã làm", và còn ghi nghĩa khác hơn khi đã đứng sau như "làm đã" (hàm ý chưa làm, để làm xong rồi mới làm việc mới ...).

d) thì tiền quá khứ[8] (plus quam perfectum/L) "Hôm kia khi oũ đến đã chép thư đoạn" (hôm kia khi ông đến thì tôi đã viết thư xong rồi)

e) thì tương lai (futurum/L) như "sẽ đi".

Tóm tắt lại các nhận xét cách đây gần 4 thế kỉ của LM de Rhodes: nghĩa một câu thay đổi khi "đã" đứng ở những vị trí khác trong một câu, động từ tiếng Việt không thay đổi và các phụ từ thêm vào trong câu (đã/đang/sẽ ...) để tạo thành các thì. Sau này LM Taberd giải thích rõ hơn về năm thì của tiếng Việt - trích từ cuốn "Dictionarium Latino-Anamiticum" (1838, để ý chữ Anam/Anamiticum chỉ có một phụ âm[9] n) - xem hình chụp bên dưới. Cả hai vị đều không nhắc đến thì hiện tại tiếp diễn, hậu quả của sự đồng nhất của hai thì hiện tại đơn và hiện tại tiếp diễn trong ngữ pháp La Tinh - xem bảng chia thì tiếng La Tinh ở trang trước.

 

 

 

Một điểm đáng nhắc ở đây là thống kê số lần xuất hiện của đã/đang/sẽ trong một tác phẩm cho ta nhiều thông tin thú vị. Thí dụ như vì trọng quá khứ trong truyền thống văn hoá/xã hội (cụ thể là thờ cúng tổ tiên) từ một tư duy tổng hợp, nên tiếng Việt dùng nhiều thì quá khứ (đã/đà) so với thời hiện tại (đang/đương) và tương lai (sẽ):

 

PGTN                         đã (455 lần xuất hiện) so với sẽ (12 lần) và đang (13 lần)

Truyện Kiều              đã (304 lần) so với sẽ (16 lần) và đang (10 lần) ...v.v...

 

Ngoài ra, sự phân chia thời gian rất chi tiết và có khuynh hướng định lượng như tư duy phân tích, phản ánh qua ngữ hệ Ấn-Âu, làm tăng số thì/tense và thể/aspect trong ngữ pháp: td. tiếng Anh có 12 thì, tiếng Pháp có 9 thì (ngoại trừ thức giả định và điều kiên)... Trong một câu khi có trạng từ thời gian (td. bây giờ, ngày mai, hôm qua) thì tư duy tổng hợp có khuynh hướng ‘coi nhẹ đi’ (hay trở nên không bắt buộc, được "điều chỉnh") chức năng của các phụ từ chỉ thời gian đã/đang/sẽ; đây là một tính chất đặc biệt của cách nhìn tổng quát hơn khi các thành phần trong câu có khả năng ảnh hưởng ảnh hưởng lẫn nhau:

- Tôi *bị lên chức > Tôi được lên chức (thăng chức) ~ Tôi lên chức so với "Tôi bị xuống/giáng chức"

- Ngày mai tôi sẽ đi ~ Ngày mai tôi đi

- Trước đây tôi đã gặp ông ta ở Hà Nội ~ Trước đây tôi có/từng gặp ông ta ở Hà Nội ~ Trước đây tôi gặp ông ta ở Hà Nội …v.v…

Thêm vào đó, tuy BBC không nói đến, nhưng VBL còn ghi các cách dùng như xong/hết/rồi từng đứng sau phụ từ đã để chỉ trạng thái hoàn thành như

- đã làm xong

- đã hết

- đã làm rồi, bao giờ rồi

- đã từng sự ấy (~ đã từng trải nghiệm sự việc ấy/NCT)...v.v...

Cũng nên nhắc đến ở đây bài viết "To be tensed or not to be tensed: The case of Vietnamese" của các tác giả Trang Phan và Nigel Nuffield (2018): các tác giả này đã chứng minh rằng hình vị (morpheme) đứng sau động từ (post-verbal) như hết, xong, ra, được cùng với những hình vị đứng trước động từ[10] (pre-verbal, như đã/đang/sẽ) không có dùng một cách tùy tiện trong tiếng Việt - như nhận xét của một số tác giả trước đây - mà xác thực[11] là phụ từ chỉ thì.

2. Bàn thêm về các phụ từ đã, đang và sẽ

2.1 Phạm trù nghĩa của đã

2.1.1 Đã là khỏi, hết, không còn bệnh nữa (sanari/L - VBL trang 191). VBL ghi thêm cách dùng "đã đã" nghĩa là đã hết (bệnh). Thí dụ như PGTN trang 185 "Tay tôi đá đến được chân áo đức Chúa Jesu, thì tôi đã, mà tức thì đã lành", PGTN trang 188 "trên biển thì làm cho lặng sóng, và trên người ta thì chữa đã"; "kẻ tối liền sáng, kẻ có tật liền đã ... uống nước ấy thì cũng đã" CTTr trang 14. Để ý cách dùng lặp lại ý "Mày muốn đã cho lành chăng?" PGTN trang 192/193, "mà vua đã tật tức thì" CTTr trang 158;"Thân ông, con ông đã đã" KNLMPS trang 107 ...v.v...

2.1.2 Đã[12] là phụ từ (hay phó từ/particle) chỉ thời gian thuộc về quá khứ (past marker), một dạng chữ Nôm là 㐌. VBL trang 191 ghi là particula præteriti/L (phó từ chỉ quá khứ hoàn thành), không thấy ghi dạng đà cho tới thời LM Béhaine (1772/1773).

Hai nét nghĩa 2.1.1 và 2.1.2 còn có thể liên hệ: khi một tật bệnh nào thuộc về quá khứ (không còn hiện diện nữa) tức là bệnh đó “đã đã” - tiếng Việt bây giờ là “đã hết/đã lành/đã khỏi”. “Đã khát” là không còn khát nữa, hết khát[13]. Các nét nghĩa của đã bây giờ cũng tương tự như cách đây khoảng 4 thế kỉ.

2.2 Phạm trù nghĩa của đang/đương

2.2.1 Đang là phụ từ chỉ thì hiện tại tiếp diễn (present continous marker). Một dạng thường gặp của đang chữ Nôm là 當 hay 当, đây cũng là chữ đang HV.

2.2.2 Nét nghĩa 2.2.1 có thể liên hệ đến đang/đương HV. Chữ đang 當 (thanh mẫu đàng/đường 唐 vận mẫu đường 唐 hay đãng 宕 bình/khứ thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

都郞切,黨平聲 đô lang thiết, đảng bình thanh (TVGT, ĐV, QV, TV, NT, LT, VH, CV, TVi)

丁浪切,黨去聲 đinh lãng thiết, đảng khứ thanh (ĐV, QV, TV, LT, VH, CV, TVi)

都浪切 đô lãng thiết (N, TTTH)

TNAV ghi vận bộ 江陽 giang dương (dương bình/khứ thanh)

CV ghi cùng vần/bình thanh 當 襠 璫 鐺 東 簹 艡 (đang/đương đông)

CV ghi cùng vần/khứ thanh 當 讜 瓽 儅 闣 擋 (đáng/đang đảng đáng)

丁浪反 đinh lãng phản (KH)

丁郞切 đinh lang thiết (TTTH)

都昌切,黨平聲 đồ xương thiết, đảng bình thanh (CTT) - thời CTT, xương đọc gần như chāng so với đang (đọc là dāng) ...v.v...

Giọng BK bây giờ là dāng dáng dǎng so với giọng Quảng Đông dong1 dong3 dong2 và các giọng Mân Nam 客家话:[沙头角腔] dong1 dong5 [客英字典] dong1 dong5 [陆丰腔] dong1 dong5 [宝安腔] dong1 | dong5 [海陆丰腔] dong1 dong5 [台湾四县腔] dong1 dong5 [梅县腔] dang5 dong1 dong5 [东莞腔] dong1 [客语拼音字汇] dong1 dong4 [梅县腔] dong5 潮州话:多秧1 多安3 多秧3 ,deng1(tng) dang3(tàng) deng3(tg), giọng Mân Nam/Đài Loan tang1, tiếng Nhật tou và tiếng Hàn tang.

Đang HV có các nghĩa là chịu trách nhiệm, gánh vác (đảm đang), cáng đáng, hợp/thích hợp (thích đáng), cầm, đợ, chủ - các dạng biến âm của đangđáng, đươngđành[14] (td. 彭 băng/bang/bàng và bành, 凭 bằng > bành, 命 mạng > *mạnh > mệnh, 江 giang > gianh, 良 lang/lương > lành, 當 đang > đành ...). Chính nét nghĩa gánh vác/chịu đã trở thành dấu chỉ thời hiện tại trong tiếng Việt (đang làm, đang gánh vác chuyện gì). Thí dụ của BBC "Tôi mạc việc bây giờ" cũng cho thấy khái niệm bận việc (mắc việc) trong hành động chỉ thời hiện tại, phản ánh chủ ý của cá nhân, người làm chủ hành động của mình. Trong khi đó tiếng Trung (Hoa) không dùng đang để chỉ thì hiện tại. Tiếng Trung (Hoa) dùng các trạng từ thời gian (adverb of time) để chỉ thì hiện tại và các động từ thì không thay đổi (tương tự như tiếng Việt). Các trạng từ thời gian có thể là 每天 mỗi thiên (mỗi ngày), 每年 mỗi niên (mỗi năm), 經常 kinh thường (thường), 有時 hữu thì (có khi, đôi lúc) ... Để chỉ một hành động đang xẩy ra (thì hiện tại tiếp diễn) thì thêm các trạng từ thời gian như 現在 hiện tại, 正在 chính tại, 此刻 thử khắc, 目前 mục tiền ...v.v... Khuynh hướng thay đổi nghĩa cũng hiện diện trong cách dùng đang thì vào thời VBL. Đang/đương thì 當時 nghĩa là thời xuân sanh (thời còn trẻ, xuân thì) ngoài nét nghĩa khi đó/lúc đó hay tức thì trong tiếng Hán. PGTN trang 235 ghi "Hãy suy, hãy xét Chúa rất sang, rứt trọng, khi đang thì nên người, coi có xuống đầu, mà chịu chết rứt xấu hổ vì bạn". Vào thời VBL, cách dùng sinh thì 生時 cũng có thêm nét nghĩa là chết (qua đời) - xem thêm loạt bài "Sinh thì là chết?" cùng tác giả (NCT).

2.3 Phạm trù nghĩa của sẽ (chữ Nôm là )

2.3.1 Sẽ[15] trong từ láy sẽ sẽ là chậm chạp, từ từ (VBL trang 684 ghi de vagar[16], lente/L parcate/L). VBL ghi các các cụm từ tương đương là khoan khoan, khoan thai, thong thả: tất cả đều liên hệ đến thời gian kéo dài ra (hay chậm lại, từ từ).

Câu 379 của truyện Kiều cho thấy nét nghĩa 2.3.1 của sẽ (~ từ từ, nhẹ nhàng - tính từ), rất dễ nhầm lẫn với nét nghĩa 2.3.2 (phụ từ chỉ tương lai) - đặc biệt với khả năng có thể đứng trước hay sau động từ (sẽ nói ~ nói sẽ, sẽ dặng ~ dặng sẽ …):

隔花仕

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập