Tâm Nguyện Thức Thời & Niềm Tin Vào Thế Hệ Trẻ Của Cư Sĩ- Bác Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám

Đã đọc: 1548           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Tham luận Hội Thảo “Cư Sĩ tâm Minh – Lê Đình Thám và những đóng góp với Hội An nam Phật Học” tại Chùa Từ Đàm – Huế từ ngày 10&11/4/2019 (6,7/3 Kỷ Hợi .

Với anh em chúng tôi, những người thuộc thế hệ  kế thừa, sống và dấn thân  cho lý tưởng Đạo Pháp – Dân Tộc trong các đoàn thể Thanh Niên Phật giáo, đặc biệt Gia Đình Phật Tử, Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám – 1897 - 1969 ( Từ đây xin  tạm gọi bằng Pháp danh Tâm Minh)_là một nhân sĩ trí thức Phật giáo tiêu biểu nửa đầu thế kỷ  20, đồng thời là một cư sĩ Phật tử tiêu biểu nhất tiền chấn hưng Phật giáo và nhất là một người anh cả trong   giới trẻ  tu học  có xu hướng tiến bộ, biết vận dụng  thời cơ  để tạo dựng nền tàng  sinh động  cho Phật giáo trước ngưỡng cửa bước vào  thời đại mới.(a)

                             Như chúng ta được biết, bác Tâm Minh vốn xuất thân trong một gia đình khoa bảng  rạng rở, được trưởng thành trong cả hai nền giáo dục Nho học lẫn Tây học, nên  trong rất nhiều hoạt động chuyên môn hay xã hội  Bác Tâm Minh đều đạt được thành công  nhất định theo sở nguyện. Điều này thêm ứng vào  lời dạy của chư tôn cổ đức xưa nay rằng những con đường  đến với tinh hoa Phật học có một lối tiếp cận nhanh và chính xác hơn cả đó là bằng chính tri thức, kiến thức sẵn có của mình.Thật vậy, Bác Tâm Minh đến với Phật  đạo  bằng ngõ Phật học qua lăng kính  sở học  của chính  mình, không như  các trường hợp  qua ngõ tang gia hay biến động cuộc sống đưa đẩy.  Đó là một ấn tượng của tri thức  khi lần đầu , một người từng am tường Nho học và Tây học chạm phải bốn câu kệ của Lục Tổ Huệ Năng ( 638 – 713 ):

                             Bồ đề bổn vô thọ

                            Minh cảnh diệc phi đài

                            Bổn lai vô nhất vật

                            Hà xứ nhá trần ai .

                             Đó là “bài test” đầu tiên, và là cánh cửa Phật học có dấu ấn rất lớn, rất đậm mang tính chất khẳng định cuộc đời đạo nghiệp của Bác Tâm Minh, được hé  mở từ đây trong suốt quảng đời còn lại . Đó là năm Bính Dần ( 1926) khi  bác là bác sĩ có trách nhiệm điều trị cho bệnh nhân ở Bệnh Viện Hội An ( Quảng Nam ). Trong thời gian  vừa tiếp tục hoàn thành  sở học, vừa lui tới các chốn Già Lam để thỉnh ý chỉ Phật pháp nới các chư tôn  Hòa Thượng . Đáng kể hơn là Bác Tâm Minh đã lãnh hội ý nghĩa bài kệ  trên của Lục Tổ Huệ Năng qua giảng luận, triển khai cặn kẻ của Hòa Thượng Giác Tiên ( 1880 – 1936 ) tại Trúc Lâm thiền tự.

                              Khi Tổng Hội An Nam Phật Học ra đời và  mở đại hội tại  Huế ngày 14.8.1938 thì Bác Tâm Minh đã chính thức  có mặt  trên hếu hết các  chương trình hoạt động  Phật giáo, hổ trợ tích cực cho chư tôn  đức lãnh đạo đạt những thành tựu   đáng kể.

                              Có thể  khẳng định, sự tu học của Bác Tâm Minh là một sự tu học của dấn thân , mang nhiều hơi thở của thời thế. Dễ dàng nhận ra điểu này tại  Đại Hội Tổng Hội An Nam Phật Học  - Huế  vừa  nêu, Bác Tâm Minh đã có  một đề xuất  mạnh mẽ khi nghỉ đến con đường phát triển đạo mạch  trong lâu dài bằng lực lượng kế thừa còn chưa được  định hướng  ở phía ngoài bốn tường rào  trang nghiêm của các chốn Già Lam cổ kính. Đó là thế hệ trẻ. Bác nói “ Không có sự thành tựu bền vững nào lại không nhắm tới hàng ngũ thanh thiếu niên. Họ là những người nối tiếp chúng ta trong ngày mai…”. Tinh thần này đã được thể hiện từ trong gia đình của mình mới chỉ sau 4 năm  tiếp cận với Phật pháp; năm Canh Ngọ ( 1930 ) Bác Tâm Minh đã tổ chức làm lễ cưới cho con gái là bà Lê Thị Hoàng sánh duyên cùng ông Hoàng Văn Tâm tại chùa Từ Đàm, Thừa Thiên - Huế. Đây là lễ cưới  được tổ chức tại chùa  đầu tiên của lịch sử Phật giáo Việt Nam chúng ta. Được biết  từ trước đó cũng có nhiều  mong muốn được làm như vậy với gia đình, cháu con mình của các bậc cư sĩ thiết tha với đạo pháp, nhưng tất cả  cũng chỉ dừng lại  nơi ước muốn, có lẽ do còn nhiều e ngại từ nghi thức  này bởi  âm mưu đồng hóa Phật giáo với các hình thức mê tín dị đoan của các thế lực xấu còn chưa được xóa tan định kiến.(b) . Trong một thời gian khá dài,  sự kiện  này chưa được các trang sử liệu Phật giáo chúng ta ghi nhận xứng đáng, mãi cho đến những năm gần đây mới lại  tiếp tục được nhân rộng khắp nơi, khiến đã có   lời ra tiếng vào bảo rằng Phật giáo chúng ta bắt chước (?) hết sức thiển cận ! Với cơ chế  Giáo Hội hiện hành, lỗi này có lẽ phần lớn ở bộ phận thông tin truyền thông và Hoằng Pháp?

                               Nhưng  lời tâm huyết và ước muốn  sử dụng lớp trẻ vào trong  khung cảnh tu học hay  tạo lực lượng kế thửa của Bác Tâm Minh thể hiện rõ nhất , thành công nhất qua việc mạnh dạng đứng ra, trực tiếp chịu trách nhiệm với chư tôn lãnh đạo, thành lập Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân  của Gia Đình Phật Tử ngày nay. Đó là ngày Phật Đản mùng 8 tháng 4 năm Giáp Thân ( 30.04.1944 ) (c). Cũng là  ngày Đại Hội TNPG tại rừng Quảng Tế - Huế. Những người  tích cực hưởng ứng  mong mỏi chính đáng  của Bác Tâm Minh  đầu tiên  có các vị Phạm Hữu Bình, Đinh Văn Nam (d), Ngô Điền, Ngô Thừa , Võ Đình Cường, Đinh Văn Vinh, Nguyễn Hữu Quán, Nguyễn Khải, Lê Kiểm, Phạm Quy, Hoàng Ngọc Phu, Lê Đình Duy. Sau còn có thêm Ưng Hội, Trần Thông, Lâm Công Định.v…v…

                             Các Gia Đình Phật Hóa Phổ đầu tiên được thành lập  là Gia Đình Tâm Minh ( do Bác Tâm Minh làm Phổ trưởng),Gia Đình Thanh Tịnh ( do  Bác sĩ Tôn Thất Tùng là Phổ trưởng ), Gia Đình Tâm Lạc ( Do Phạm Quang làm Phổ trưởng), Gia Đình Sum Đoàn ( do Nguyễn Hữu Thiện là phổ trưởng)...

                             Cho đến năm Tân Mão ( 1951),  Đại Hội Gia Đình Phật Hóa Phổ tại chùa Từ Đàm, đã quyết định chính thức đổi tên thành Gia Đình Phật Tử Việt Nam cho đến ngày nay.

                           Như vậy, từ đoàn thanh niên Phật giáo đức dục, chuyên quy tụ giới trẻ đến chủa  tụng kinh  đơn thuần đến Gia Đình Phật Hóa Phổ mang hơi hướng  sinh hoạt năng nổ bên cạnh  việc tu học cần thiết và khi đã phát triển thành tổ chức lớn Gia Đình Phật Tử, mang chút dáng vẻ của sinh hoạt hướng đạo sinh năng nổ, sinh động , từng giai đọan chuyển hóa không xa lắm chứng tỏ tính phổ cập  xã hội trong tầm nhìn xa của Bác Tâm Minh rất kịp thời và luôn được các đạo hữu  chung quanh hết lòng ủng hộ tiếp sức. Sự tin tưởng và tiếp sức này từng  được diễn ra trong quá trình  dấn thân  phụng sự ngay từ lúc  ban đầu, dùng tờ báo Viên Âm làm  tiếng nói  tri thức Phật học , hỗ trợ con đường hoằng hóa, canh tân Phật giáo.  Số đầu tiên ra ngày 1/3/1933 cho đến  9 năm sau, tháng 5. 1944 đã chuyển giao cho đoàn Thanh Niên Phật Hóa Đức Dục quản lý và điều hành, bắt đầu từ số 48.

                              Với những đầu sách Bác Tâm Minh để lại cho chúng ta, đó không chỉ là những công trình nghiên cứu, dịch thuật mà còn là  cả một gia tài theo từng bước  đăng trình trong nẻo đạo, để lại cho đời. Ở đó còn nói lên được nhiều tâm tư , khúc nôi có khi chưa bày giải được cùng ai. Thí dụ bộ kinh Lăng Nghiêm. Đây là một công trình  Bác Tâm Minh đã dày công  dịch thuật và chú giải  trong  thời gian dài, được đăng tuần tự trên báo Viên Âm. Mãi đến năm 1961, khi Bác đang ở  Hà Nội, đã chỉnh sửa hoàn tất và cho xuất bản tại chùa Quán Sứ.  Gia đình bác  đã  cho tái bản  và lưu hành rộng rãi ở miền Nam (e).Ngoài bộ Kinh Lăng Nghiêm ra còn có các sách “Luật Nhơn Minh”, “Phật Học thường thức”, “ Bát Nhã tâm Kinh”, “Bát Thúc Qui Cú Tụng”, “Lịch Sử Phật giáo Việt Nam và Phật Tổ Thích Ca”, “Đại Thừa Khởi Tín Luận”.v…v…

                              Bên cạnh những  công trình, hạnh nguyện to lớn dành cho đạo pháp, Bác Tâm Minh cũng không quên đặt nặng  trách nhiệm  của mình đới với  quê hương đất nước, cụm từ mà xưa nay  Bác Tâm Minh thường  được nghe  giáo huấn từ các chư tôn  ân sư khả kính qua nền tảng Tứ Ân cao vọi của Phật giáo. Ngay khi  khi chế tác  đồng phục cho  tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ - Gia Đình Phật Tử cụm từ này còn được thể hiện trên hai vai chiếc áo lam, với ý nghĩa người con Phật gánh  vác trách nhiệm Đạo Pháp và Dân Tộc trên  đôi vai của mình ( cầu vai ). Ngay cả chiếc nón của ngành Thiếu Nam đội trên đầu cũng gọi là “Nón Tứ Ân” với bốn  múi nhọn được chỉnh  đều xoay ngang phía trước ( gọi là” Mái Chùa “). Qua  nghiên cứu lịch sử, chúng ta biết năm Bính Tuất ( 1946), khi cuộc cuộc chiến  tranh của nhân dân ta chống  thực Pháp vào giai đoạn quyết liệt, Bác Tâm Minh cùng người dân Huế tạm thời xuôi Nam, di tản về Quảng Nam, để chì một năm sau đó cho đến  năm Kỷ Sửu ( 1949 ) làm chủ tịch Uỷ Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ. Dù đang trong hoàn cảnh  thuận nghịch thế nào, tư chất con nhà Phật  trong Bác Tâm Minh vẫn luôn luân chảy trong huyết quản, luôn  thể hiện và  kế thừa tinh thần chấn hưng Phật giáo mạnh mẻ. Điển hình  khi trong thời gian hoạt động  vùng kháng chiến Liên Khu 5, Bác Tâm Minh  tập họp một số đoàn viên  của đòan Phật Học Đức Dục có mặt trong vùng, thành lập tổ chức “Phật giáo và Dân chủ mới” tại Bồng Sơn, Bình Định (e).

                              Cũng cần nên thẳng thắn nhìn nhận rằng, kể từ mùa hè năm Kỷ Sửu ( 1949), Bác Tâm Minh  tạm biệt  tất cả để cất bước lên đường ra đất Bắc. Hoàn cảnh  chiến tranh , cách trở quan san, cách trở  thông tin, Bác  Tâm Minh trước hết dành phần lớn thời gia lưu trú tại đây , đem  hết sức  lực và trí tuệ của mình, hòa vào nhiệm vụ chung với đồng bào  đất Bắc vừa lo xây dựng, vừa lo chống chọi với  ngoại xâm, nên các mặt hoạt động  dành cho đạo pháp rất ít. Tuy nhiên Bác Tâm Minh vẫn được nhà nước quan tâm và trọng  thị. Trong đó đáng kể vào năm Bính Thân ( 1956 ) Nhà Nước  đề cử Bác và  H. T Thích Trí Độ ( 1894 – 1979 ) tham dự phái đoàn sang dự Đại Hội Phật Giáo Buddha Jayanti tại Ấn Độ.

                              Ngày Bác Tâm Minh  nằm xuôi tay thuận  thế vô thường cũng tại  đất  Bắc xôi này nhưng rất ấm lòng khi phước báu tích tụ, được chính H.T Thích Đôn Hậu ( 1905 – 1992 ) cận kề , trợ niệm rất chân thành và cảm động. Thọ 73 tuổi, 42 năm hết lòng phụng sự đạo pháp.

                               Tinh thần dấn thân  nhiều mặt, phụng sự đạo pháp của Bác Tâm Minh, luôn được  những thế hệ trẻ nối tiếp nhau bày tỏ lòng ngưỡng mộ , lấy làm bài học chung phấn đấu  vươn lên , nên  dưới  con mắt các bạn Bác Tâm Minh luôn tươi trẻ nhiều mặt, luôn như  người bạn đồng hành. Trong sinh hoạt, trong tu học, cái tên Tâm Minh Lê Đình Thám  luôn sáng chói  ở một góc trái tim . Cho nên danh xưng các kỳ trại, các khóa huấn luyện hay họp bạn quan trọng  tên của Bác Tâm Minh luôn là  chọn lựa hàng đầu đầy trân trọng.

                               Phật giáo  Việt Nam chúng ta  quả đã rất tự hào và hãnh diện khi còn có các bậc  Cư Sĩ  uyên thâm, thục hành pháp Phật  chuyên cần, trong đó có một Bác Tâm Minh Lê Đình Thám  mà hôm nay chúng ta đang  cùng hội ngộ nơi đây  nói lên tiếng nói tri ân và ngưỡng mộ tinh thần dấn thân phụng sự. Chúng ta tuy chưa  dám ví   các vị như một Duy Ma Cật thời đại nhưng trong chừng mực của sự  cống hiến, thành tựu cũng như hành trì  Phật pháp thì ý nghĩa đã gần như tương đồng một sự tôn vinh xứng đáng, muôn đời sau  các thế hệ kế thừa  hãy còn nhắc nhớ.

                                Thay Lời Kết

                                Bác Tâm Minh Lê Đình Thám  để cho hàng hậu học chúng ta  nhiều giá trị tinh thần to lớn, nhưng có lẽ hiện hữu, sinh động nhất, còn lại  với Phật giáo Việt Nam hiện thời  là  một đoàn thể Gia Đình Phật Tử hùng mạnh , có đủ đầy giá trị lịch sử, điều lệ, nội quy tồn tải rất chặt chẽ. Đã có  một thời gian dài,   mỗi ngôi chùa đều có một đơn vị GĐPT, vì  với  nhận định   ban đầu , nhìn vào ai cũng  biết ngôi chùa đó có tinh thần   Tâm Minh Lê Đình Thám, cầu tiến và tuân thủ giáo lệnh, dễ tạo ra thiện cảm  với chung quanh. Đó là hình bóng của một người Phật tử - cư sĩ tiêu biểu đáng hãnh diện nhất của PGVN của thế kỷ 20. Những tưởng GĐPT – Giá trị  tinh thần  tiêu biểu của Bác Tâm Minh cũng đã đến hồi  cáo chung với  cụm từ rất đẹp hoàn thành nhiệm vụ khi sau năm 1975 tất cả đều gần như tê liệt hoàn toàn. May mắn sao, từ phước lực tự thân của tổ chức này, tại Đại Hội GHPGVN lần III ( Hà Nội 1992 ) GĐPT được đưa vào chương trình nghị sự . Không lâu sau đó, tháng 12 năm 1995 (Ất Hợi) Ban Tôn Giáo Chính Phủ  ra thông tư số 01, chấp thuận cho  GĐPT tái sinh hoạt trong  nền tàng chung của GHPTVN. Được chấp thêm đôi cánh GĐPT từ đó đến nay  phát triển không ngừng  từ Bắc vào Nam.

                           Như chúng ta đã biết, phát triển từ  tâm nguyện khi xưa của Bác Tâm Minh và những bậc  cao tăng thức giã, Tổng Vụ Thanh Niên trước kia đã  cho thành lập 7 Vụ chuyên ngành . Đứng đầu là GĐPT Vụ, Thanh Niên Phật Tử Vụ, Sinh Viên Phật Tử Vụ, Học Sinh Phật Tử Vụ, Thanh Niên Thiện Chí Phật Giáo Vụ và Hướng Đạo Phật giáo Vụ, rất đa dạng và phong phú về hình thái sinh hoạt, đáp ứng cho lựa chọn  tu học của nhiều tầng lớp thanh niên. Ngày nay do điều kiện  khách quan  chỉ còn tồn tại mỗi tổ chức GĐPT, là hình ảnh, niềm tin  cho các thế hệ trước kia  gởi gấm  sự tin tưởng của mình cho tiền đồ tươi trẻ của PGVN mai hậu. Và GĐPT phải chứng tỏ vai trò của mình, xứng đáng  là hình ảnh đại diện cho  6 Vụ còn lại. Vậy nên  nếu có sự bạc đãi hay hất hủi  tổ chức  còn lại này khác chi muốn xóa sạch công  lao khó nhọc  của Bác Tâm Minh  và các  bậc thức giã cùng thời , đã khổ công gầy dựng mới có  ?

                          Ngay tại nơi đây, mái chùa Từ Đàm , nơi lưu  giữ nhiều dấu ấn, bước chân của Bác Tâm Minh Lê Đình Thám, và là trái tim của cuộc đấu tranh  trong tinh thần  Bi- Trí- Dũng bất bạo động của  PGVN  năm 1963, lòng chúng tôi  dâng lên niềm bồi hời, xúc động  vô biên . Xin nguyện cầu   Tam Bảo  hằng thường gia hộ  và hương linh Bác Tâm Minh Lê Đình Thám chứng minh khi tất cả đang hướng về những  thành quả dành cho đạo pháp  của Bác còn để lại hôm nay.

 

                                                                                            Dương Kinh Thành

                                                                        ( Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Giáo Việt Nam )

  Chú thích :

a)      Bài tham luận được cố gắng thực hiện trên các nguồn sử liệu chắp vá từ nhiều nguồn khác nhau. Đặc biệt các nguồn từ tổ chức Gia Đình Phật tử.

b)      Năm Tân Hợi ( 1973) Cố Hòa Thượng Viện Trưởng Thích Thiện Hoa ( 1918 – 1973) chính thức đặt tên cho lễ cưới ở chùa  với tên gọi “Lễ Hằng Thuận”.

c)       Lúc này khi chưa có Nghị Quyết của Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới vào năm Nhâm Thìn ( 1952) thống nhất tổ chức Lễ Phật Đản  vào ngày rằm tháng tư hằng năm. PGVN  là một thành viên  của tổ chức  này nên cũng   thực hiện theo đúng tinh thần  nghị Quyết đó. Do truyền thống   từ xưa nên  mỗi năm lễ Phật Đản  ở VN  được tính từ  mùng 8 cho đến rằm tháng tư, được gọi là “tuần lễ Phật Đản”.

 

d)      Tức cố H.T Thích Minh Châu ( 1918 – 2012 ), người đã trực tiếp soạn thảo ra các điều luật của GĐPT, được  tuyên đọc trong các klhóa lễ  thường  kỳ sinh hoạt.

 

e) Theo Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ XX- tập I- Thích Đồng Bổn chủ biên , NXB Tôn Giáo 2017.






Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập