Phật giáo và Môi sinh (Buddhism and Ecology)

Đã đọc: 6187           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Sơ lược một số bài thuyết trình trong quyển "Buddhism and Ecology" cho thấy thế giới đã chuyển mình để chấp nhận rằng thiên nhiên, con người và tôn giáo, nhất là Phật giáo, không thể biệt lập nhau mà có thể sinh tồn được.

  Trong gần ba thập niên trở lại đây, phương Tây mới bắt đầu chú ý đến tầm quan trọng của thiên nhiên đối với sự sống của con người. Trước đó, họ chỉ biết chinh phục và tàn phá thiên nhiên để chứng tỏ sức mạnh của những điều gọi là tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Cho đến khi có một số ít người bắt đầu quan tâm đến sự hiện hữu thiết yếu của môi trường chung quanh trước sự sinh tồn của con người, mới có những phong trào hoạt động, chính trị, hoặc thuần túy xã hội, nổi lên, lấy màu xanh, màu của cây cối thiên nhiên, làm mục tiêu cho những hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái. Những hoạt động này dần dần gây ảnh hưởng trên nhiều phương tiện, đến nỗi giới học giả cũng bắt đầu tích cực tham gia. Việc đầu tiên là họ thúc đẩy tôn giáo, thể hiện cho sự tồn tại về tâm linh và đức tin của con người ngay từ khi con người bắt đầu hiện hữu trong vũ trụ này, phải có thái độ đối với sinh thái mà trong đó, con người đóng vai trò quan trọng.

            Năm 1996, Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới của Ðại học Harvard (Harvard University Center for the Study of World Religions) phối hợp cùng Ðại học Bucknell và Trung tâm Tôn trọng Sự sống và Môi sinh của Hội Nhân đạo Hợp chủng quốc (Center for Respect of Life and Environment of the Humans Society of the United States) tổ chức một Hội nghị về đề tài "Các tôn giáo thế giới và môi sinh", sau hơn 3 năm chuẩn bị, quy tụ hơn 700 nhà thuyết trình và với tham dự viên gồm các học giả, các nhân vật lãnh đạo các tôn giáo lớn và các chuyên gia về môi sinh khắp thế giới. Ngoài ra đại hội còn được sự ủng hộ và bảo trợ của các hội đoàn đại diện các tôn giáo lớn như The Aga Khan Trust for Culture, Association of Shinto Shrines, Dharam Hinduja Indic Research Center at Columbia University, Harvard Center for Middle Eastern Studies, Harvard Divinity School Center for the Study of Values in Public of North America, Theological Education to Meet the Environment Challenge, v.v...

            Các tôn giáo lớn đều có chương trình tham dự và làm đề tài các cuộc họp chuyên đề trải dài hơn hai năm như sau:

            - Phật giáo: Buddhism and Ecology, 3-5 tháng 5, 1996.

            - Khổng giáo: Confucianism and Ecology, 30 tháng 5 - 1 tháng 6, 1996.

            - Thần đạo Nhật Bản: Shinto and Ecology, 21-24 tháng 3, 1997.

            - Ấn Ðộ giáo: Hinduism and Ecology, 2-5 tháng 10, 1997.

            - Truyền thống Tôn giáo bản địa: Indigenous Traditions and Ecology, 13-16 tháng 11, 1997.

            - Do Thái giáo: Judaism and Ecology, 22-24 tháng 2, 1998.

            - Ky-tô giáo: Christianity and Ecology, 16-19 tháng 4, 1998.

            - Hồi giáo: Islam and Ecology, 7-10 tháng 5, 1998.

            - Ðạo giáo: Taoism and Ecology, 5-8 tháng 6, 1998.

            - Kỳ Na giáo: Jainism and Ecology, 10-12 tháng 7, 1998.

            Ðại hội khoáng đại, sau những cuộc họp chuyên đề nêu trên, được chuẩn bị vào những ngày 17 - 20 tháng 7 năm 1998, đã hoạch định và tuyên bố một Hiến chương Toàn cầu (Earth Charter) làm tiêu chuẩn cho công cuộc vận động bảo vệ môi trường và sinh thái trên thế giới. Tiếp theo là cử đại diện đến tổ chức Liên Hiệp Quốc thuyết trình vào những ngày 20 - 21 tháng 10 năm 1998 để được toàn thể các quốc gia trên thế giới hợp thức hóa cho Hiến chương Toàn cầu này.

            "Bản chất của sự khủng hoảng môi trường" là bài thuyết trình dẫn nhập do hai nhà tổ chức hội nghị, Mary Evelyn Tucker và John Grim, đọc trước cuộc họp đại hội khoáng đại, cho thấy tầm quan trọng của ý thức về môi trường sinh thái và thiên nhiên trước sự sống còn của con người trong tương lai. Và để cho các kết quả của những kỳ họp này được phổ biến, Ðại học Harvard đã cho ấn hành các bài thuyết trình trong một loạt chuyên đề gọi là "The Religions of the World and Ecology publications series" với mục đích tạo giềng nối cho một khía cạnh học thuật mới về bộ môn tôn giáo học, một khía cạnh có ảnh hưởng sâu đậm trên nền đạo đức môi sinh hiện đại cùng những đề án thích nghi cho chính sách cộng đồng về vấn đề này.

            Quyển đầu tiên trong loạt chuyên đề này là "Buddhism and Ecology: The Interconnection of Dharma and Deeds", do Maru Evelyn Tucker and Duncan Ryuken Williams biên tập, chủ đề về sự tương hệ giữa lý thuyết của giáo pháp và kết quả thực tế của hành động theo quan niệm của đạo Phật. Kế đến là quyển "Confucianism and Ecology: The Interrelation and Heaven, Earth, and Humans", do Mary Evelyn Tucker and John Berthrong biên tập, chú trọng đến liên hệ tam tài: thiên, địa, nhân của Khổng giáo. Quyển "Christianity and Ecology: Seeking the Well-Being of Earth and Humans", do Dieter T. Hessel và Rosemary Radford Ruether biên tập, đi tìm sự bình an cho con người và quả đất theo Ky-tô giáo. Quyển thứ tư, "Hinduism and Ecology:  Intersections of the Earth and Dharma", do Christopher Key Chapple and Mary Evelyn Tucker biên tập, xuất bản vào mùa Hạ năm 2000, trình bày con đường giao điểm giữa trái đất và triết thuyết sự hiện hữu của nó, theo quan niệm Ấn Ðộ giáo. Lần lượt các bài thuyết trình của những tôn giáo khác cũng sẽ được tập thành và xuất bản.

            Trong cuộc hội nghị đầu tiên, với chuyên đề "Buddhism and Ecology", cũng đáng được bàn đến. Chỉ trong 3 ngày, từ 2 đến 5 tháng 5 năm 1996, mà bao nhiêu bài thuyết trình được đọc với những đề tài như Nguyên Thủy Phật giáo và Môi sinh, Phật giáo Nhập thế, Phật giáo và Súc sinh, Thiền và Sinh thái, Những vấn đề về Phật giáo Môi sinh, Phật giáo Mỹ và Môi sinh, v.v... Tham dự hội nghị này có những học giả tiếng tăm trong Phật giáo như Mary Evelyn Tucker thuộc Bucknell University, Trưởng ban điều hành hội nghị; giáo sư lão thành Masatoshi Nagatomi, Khoa trưởng Divinity Shool của Harvard University, Cố vấn; Lewis Lancaster, Khoa trưởng Phật khoa, University of California-Berkeley; Christopher Queen, Harvard University v.v... Ta thử điểm qua một vài đề tài trong hội nghị này:

            Leslie Sponsel và Poranee Natadecha, University of Hawaii-Manoa thuyết trình về "Cộng đồng Tăng già như là một Xã hội Xanh tại Thái Lan; vai trò tiềm năng trong Ðạo đức môi sinh, Giáo dục và Hành động". Xanh (green), màu của cây lá, như đã nhắc ở trên, là một thuật ngữ dùng chỉ cho tất cả những gì thuộc môi trường và sinh thái mà các phong trào bảo vệ đang vận động; Xã hội Xanh là một xã hội lý tưởng mà họ muốn đạt tới, nơi đó con người sống hòa hợp với thiên nhiên và không phá hủy môi trường tự nhiên ngoại tại. Trong khi đó, Donald Swearer, thuộc Swarthmore College, trình bày về "Khái niệm về Môi sinh Phật giáo trong các kinh điển để ứng dụng cho đường thời Thái Lan: tư tưởng của các Phật gia tiến bộ Buddhadasa và Dhammapitaka". Joe Franke thì nói về đề án Lâm tự, để tổ chức ủng hộ các Sơn tăng Xanh trong những ngôi chùa vùng rừng núi của Ðông Nam châu Á.

            Rita Gross, Ðại học Wisconsin-Eau Claire, nổi danh về những đấu tranh dành quyền bình đẳng cho phụ nữ, lần này lại nói về "tiềm lực Phật giáo trước những vấn đề dân số, tiêu thụ và sinh thái". Ngược lại, Christopher Key Chapple, Loyola Marymount University, chú ý đến chỗ đứng của "súc vật trong truyền thống Sa môn sơ thời"; còn Joanna Handlin Smith, biên tập viên của Harvard Journal of Asiatic Studies, thì trình bày về truyền thống phóng sanh trong thời nhà Minh và Thanh của Trung Hoa, dựa trên ảnh hưởng của Vân Thê Châu Hoằng. Truyền thống này cũng được Duncan Ryùken Williams, Ðại học Harvard, chú ý đến khi nói về ý nghĩa nghi thức lễ phóng sanh (Hôjô-e) trong thời trung cổ của Phật giáo Nhật Bản.

            Qua đến phần Thiền và Môi sinh, Ruben Habito, thuộc Ðại học Southern Methodist University, viết về "Núi, Sông và Ðại địa: Thiền trước vấn đề Sinh thái"; cùng một quan điểm, John Daido Loori, Zen Mountain Monastery, nói đến "Những bài học đạo đức mà Núi và Sông đã cấp bách cung ứng cho trái đất này". Graham Parkes, Ðại học Hawaii, Manoa, tiến xa hơn nữa, bàn đến "Sự giáo hóa của Pháp thân Phật qua hiện hữu của núi đá, cây rừng: Ðạo Nguyên và bí ẩn Sinh thái".

            Phần Tây Tạng Phật giáo cũng được Jeffrey Hopkins, Ðại học Virginia, nhắc đến qua "Sự quan ngại của Phật giáo về Môi trường", trong đó có vấn đề phải chăng đó chính là thực tế cần bảo vệ hay chỉ là những tưởng tượng của những nhà trí thức thời thượng. Còn M. David Eckel, Ðại học Boston, thì nói đến thuyết "Con người, trung tâm vũ trụ (Anthropocentrism), để so sánh với lý Tánh Không và quan niệm về Thiên nhiên trong Phật giáo".

            Steven Rockefeller, Middlebury College, thuyết trình về những đóng góp của Phật giáo vào Hiến chương Toàn cầu. Stephanie Kaza, Ðại học Vermont, bàn đến "Sự hội ứng của Phật giáo Mỹ đối với đất đai". Riêng Jeff Yamaguchi, dạy ở Prescott College, thì trình bày một trường hợp điển hình về ý thức Xanh qua sinh hoạt của Zen Mountain Center, nơi ông thực tập thiền.

            Sơ lược một số bài thuyết trình trong quyển "Buddhism and Ecology" cho thấy thế giới đã chuyển mình để chấp nhận rằng thiên nhiên, con người và tôn giáo, nhất là Phật giáo, không thể biệt lập nhau mà có thể sinh tồn được.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập