Lịch sử Phật giáo Ấn Độ - Phần 01: Những đặc điểm riêng biệt của Phật giáo Ấn Độ

Đã đọc: 6509           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Phật giáo không phải là một tôn giáo bắt buộc những người kế thừa nghiêm khắc trung thành đối với hệ giáo lý nào đó.

Triết học Phật giáo:

Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến thời kỳ tiền Phật giáo Đại Thừa

Hirakawa Akira

Dịch bởi: Thích Đồng Tâm

 

(Phần 1)

Những đặc điểm riêng biệt của Phật giáo Ấn Độ

Do đặc thù Phật giáo khởi nguồn và phát triển ở tại Ấn Độ, việc sử dụng tính từ “thuộc Ấn Độ” để mô tả về Phật giáo có lẽ không cần thiết. Khi Phật giáo truyền bá từ Ấn Độ sang Đông Nam Á, Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản và những quốc gia khác, các khía cạnh rõ ràng của Phật giáo được nhấn mạnh ở từng nơi xảy ra, làm phát sinh những cách hiểu và cách thực hành rộng rãi khác. Phật giáo đã thích nghi để đáp ừng những yêu cầu của quần chúng trong từng khu vực, dẫn đến kết quả tạo thành những cách hiểu và hành trì đa dạng một cách rộng rãi. Phật giáo Ấn Độ cũng có những đặc điểm duy nhất không đề cao trong những khu vực khác. Vì vậy, thuật ngữ “Phật giáo Ấn Độ” ngày nay thường được dùng để phân biệt với Phật giáo của các quốc gia khác.

Khi Phật giáo Ấn Độ được so sánh với Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Nhật Bản, sự khác nhau về khí hậu và địa lý được xem là yếu tố ảnh hưởng đến sự tu tập tôn giáo; sự thích nghi trong phương thức thực hành đã tạo ra những sự thay đổi trong học thuyết. Mặt khác, những quốc gia nơi mà Phật giáo Theravada thực hành như là Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan có nền khí hậu và địa lý tương tự với Ấn Độ nhiều hơn nên khí hậu và địa lý của Trung Quốc và Nhật Bản. Kết quả của điều này khiến việc tu tập tôn giáo theo Theravada gần gũi hơn với Phật giáo Ấn Độ so với Phật giáo các nước Đông Á.

Khảo sát ngắn về sự phát triển và truyền bá Phật giáo Ấn Độ theo khu vực địa lý hé mở nhiều về những đặc tính phổ quát và những đặc điểm riêng biệt của Phật giáo Ấn Độ cũng như cung cấp một cái nhìn tổng thể về sự phát triển của Phật giáo. Phật giáo được hình thành thế kỷ thứ năm TCN (B.C.E) do Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sáng lập. Ngài được sinh ra ở miền Bắc Ấn Độ và Nepal cai trị bởi bộ tộc Thích-ca. Sau khi quyết định trở thành người khất sĩ, Ngài đa đi đến đất nước Ma Kiệt Đà (Magadha) ở miền Trung Ấn Độ, phía Nam dãy sông Hằng, nơi Ngài thực tập lối tu khổ hạnh. Khi Ngài vào khoảng ba mươi tuổi, Thích-ca Mâu-ni đã chứng đạt được sự giác ngộ. Trải nghiệm giác ngộ là trọng tâm của Phật giáo, được mô tả như “giác ngộ được điều cơ bản” và “khám phá ra con đường giải thoát khỏi phiền não”. Mặc dù nhân loại luôn bị não loạn bởi nhiều thứ khổ đau, nỗi sợ hãi cái chết là nỗi sợ căn bản nhất. Điều này dẫn đến việc Đức Phật Thích-ca Mâu-ni diễn tả sự giác ngộ của mình bằng những thuật ngữ của “điều cốt yếu”. Mặc dù Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt thân vật lý khi ngài ở độ tuổi tám mươi, tuyên bố của ngài về sự giác ngộ đã cho thấy niềm tin rằng tâm của ngài đã chứng ngộ được chân lý bất diệt. Khổ đau hiện hữu trong kiếp người luôn gắn chặt với con người. Sự giác ngộ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là câu trả lời cho vấn đề trên, con đường giải thoát khỏi khổ đau là một đặc tính phổ biến lôi cuốn nhất của Phật giáo. Nhiều hơn bất kỳ đặc tính nào khác, đặc điểm này giúp cho Phật giáo có thể tồn tại được cho đến ngày nay.

Tuy nhiên, tại Ấn Độ, Phật giáo đã bị biến mất. Bằng những khảo sát lịch sử vắn tắt về Phật giáo Ấn Độ, một số đặc điểm đặc biệt của Phật giáo Ấn Độ cũng như những lý do dấn đến việc làm biến mất Phật giáo ở Ấn Độ có thể xác thực được. Thời gian nhập diệt của Đức Phật vào thế kỷ thứ năm TCN, tăng đoàn Phật giáo bao gồm những nhóm nhỏ các vị khất sỹ sống rải rác ở miền Trung Ấn Độ. Bằng nỗ lực của các vị đệ tử Đức Phật, Phật giáo đã được truyền bá đến phía Nam và Tây Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ 3 TCN, sau khi vua Asoka cải đạo, Phật giáo sớm được truyền bá khắp đất nước Ấn Độ. Cùng với sự phát triển của tăng đoàn và gia tăng số lượng tu sỹ, những bất đồng quan điểm về việc hành trì giới luật và sự hiểu biết giáo lý đã xuất hiện. Tăng đoàn thuở ban đầu cuối cùng chia ra thành hai trường phái: phái cấp tiến Mahasanghika (Đại chúng bộ) và phái bảo thủ Sthaviravada (Thượng tọa bộ, Pali gọi là Theravada). Thêm vào đó, sự phân phái này xảy ra cho đến khi có nhiều trường phái cùng xuất hiện và Phật giáo bước vào giai đoạn Phật giáo Bộ phái (hay còn gọi là giai đoạn Phật giáo Nikaya hay Phật giáo Tiểu Thừa).

Thuật ngữ ‘tám bộ phái’ hay “hai mươi bộ phái” được tìm thấy trong nhiều nguồn tài liệu truyền thống chỉ cho Phật giáo Bộ Phái nhưng trong một số bia ký những tên gọi của các bộ phái khác nhiều hơn con số hai mươi. Những bộ phái như Theravada, Sarvastivada, Sautrantika, Sammatiya (tất cả đều là hậu duệ của Sthaviravada) và Mahasanghika là bộ phái quan trọng nhất. Vào thời gian đầu của kỷ nguyên chung, Phật giáo Đại thừa cũng đã bắt đầu phát triển. Phật giáo Đại thừa (Mahayana) hay là “cổ xe lớn” phê phán những người theo Phật giáo Nikaya và gọi họ bằng cái tên “Tiểu Thừa Phật giáo” (Hinayana) hay ‘cổ xe nhỏ”, một thuật ngữ có tính phản đối được đặc biệt dùng cho Sarvastivadins.

Mặc dù số lượng lớn các tông phái xuất hiện và chỉ trích nhau nhưng tất cả họ đều tự nhận thuộc Phật giáo. Sự khoan dung đối với nhiều truyền thống giáo lý khác nhau dựa trên việc Phật giáo nhấn mạnh vào tầm quan trọng của sự giác ngộ cá nhân và sự tự do trong việc chiêm nghiệm và hiểu về giáo pháp. Theo Văn Thù Sư Lợi vấn Kinh (T 14:501a-b, Majusripariprccha?), các sự phân phái trong Phật giáo là kết quả của sự giải nghĩa khác nhau về giáo lý của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni của hai mươi đại đệ tử của ngài. Tuy nhiên, mỗi người kế thừa được cho là nhận được sự truyền thụ giáo lý chân chính từ Đức Phật. Trong ký sự của Nghĩa Tịnh (635-713), một tăng sĩ người Trung Quốc đã thực hiện cuộc hành trình xuyên qua Ấn Độ và Đông Nam Á, cho rằng giáo lý của Đức Phật được giảng nói giống như cây gậy vàng bị bẻ gãy thành tám mảnh. Mỗi mảnh của cây gậy là một phần của bộ phận giáo nghĩa ban đầu vì thế bản chất của giáo lý Phật giáo còn lại không thay đổi ngay cả khi tăng đoàn ban đầu bị phân mảnh thành tám bộ phái (Nan-hai chi-kuei nei-fa chuan, T 54:205c). Tương tự, những bất đồng đã được tìm thấy trong những kinh điển Phật giáo. Các tông phái Phật giáo vẫn có thể thừa nhận những tôn phái khác thuộc Phật giáo bởi vì giáo lý của họ không hình thành trên niềm tin mù quáng. Mặc dù có sự phóng khoáng trong việc chấp nhận về tính khác biệt của các học thuyết được xem như là đặc tính tốt nhất của Phật giáo. Điều này cho phép xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau trong tăng đoàn nhưng cũng dẫn đến làm suy yếu các quan điểm học thuyết khiến cho Phật giáo khác với các tôn giáo Ấn Độ khác lúc bấy giờ.

Sự hình thành Phật giáo Đại thừa vào khoảng năm trăm năm sau Đức Phật nhập diệt. Phật giáo Đại thừa là một ví dụ điển hình cho việc Phật giáo đáp ứng lại với yêu cầu của thời đại mới như thế nào. Phật giáo Đại thừa bao gồm nhiều thành tố không được tìm thấy trong Phật giáo Nguyên Thủy. Mặc dù có sự đổi mới nhưng tinh thần nguyên thủy của Phật giáo không mất đi trong Phật giáo Đại thừa Nguyên Thủy. Thật sự, những nhà Phật giáo Đại thừa lúc ban đầu đã làm sống lại tinh thần của giáo lý Đức Phật bằng việc nỗ lực làm cho giáo lý phù hợp với thời đại mới. Tuy nhiên những thành tố được đưa vào ẩn chứa những mối nguy hiểm tiềm tàng bên trong. Khi thời gian dần trôi qua, nhiều người Phật từ trở nên quan tâm nhiều hơn vào những phần mới thêm vào hơn là chú ý những thông điệp gốc của Đức Phật.

Những yếu tố thần thông đóng vai trò quan trọng trong Phật giáo Đại thừa từ lúc mới hình thành chắc chắn bởi vì chúng đáp ứng những nhu cầu tôn giáo của đại đa số người bình dân. Kinh Trí Tuệ Ba La Mật chứa đựng những thông điệp rằng bản kinh có thể bảo hộ cho những ai hành trì nó. Thêm vào đó, Kinh Trí Tuệ Ba La Mật thỉnh thoảng được gọi là “thần chú đại trí tuệ” (maha-vidya-mantra) hoặc là “đại thần chú” (maha-mantra). Theo như trong kinh Pháp Hoa (T 9:56c-58b, Saddharmapundarikasutra), niềm tin về Bồ tát Quán Thế Âm có thể bảo hộ cho con người thoát khỏi mọi tai ách. Hiệu lực của đà-ra-ni (thần chú) được tìm thấy trong nhiều kinh điển Phật giáo Đại thừa. Qua nhiều thế kỷ, những phương thức thị hiện thần thông đã giữ vai trò ngày càng quan trọng trong Phật giáo Đại thừa mãi cho đến thế kỷ thứ sáu khi Phật giáo Mật Tông hình thành như một phong trào riêng biệt và bắt đầu phát triển ở Ấn Độ.

Mặc dù Phật giáo Mật Tông rõ ràng thuộc về những phương thức Phật giáo, nghi lễ của Mật Tông hầu như không thể phân biệt được với Ấn Giáo. Cuối cùng nhiều điều căn bản về giáo lý của Mật Tông bị bỏ quên và chỉ còn những nghi thức của nó là được đề cao, sự bổ sung này cuối cùng dẫn đến sự thu hút Ấn giáo đối với Mật Tông. Ngược lại, Phật giáo Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á phát triển trong những khu vực và nền văn hóa khác với Ấn Độ khiến nhiều thành phần của Phật giáo Ấn Độ không bị đồng hóa một cách dễ dàng bởi nền văn hóa bản xứ. Thật tế, nhiều đặc điểm khác biệt của Phật giáo Ấn Độ đã được lưu truyền bởi vì chúng rất dễ thấy ở các quốc gia khác. Lấy ví dụ, giáo lý của Đức Phật về tính chất phi thực thể đã tạo ra những nét căn bản về học thuyết trong những nghi lễ của Bà la môn giáo và cả trong những truyền thống Phật giáo Mật tông Trung Quốc và Tây Tạng, những truyền thống này không bao giờ đánh mất đặc điểm Phật giáo của họ. Tại Ấn Độ, tuy nhiên, khi Phật giáo trở nên đậm tính Mật giáo hơn khiến Mật Tông ngày càng bị đồng hóa với Bà la môn giáo cho đến cuối cùng đánh mất cả những đặc tính của Phật giáo.

Phật giáo Đại thừa Nguyên Thủy là một tôn giáo đa diện bao gồm tín ngưỡng Đức Phật A Di Đà cũng như nhiều bộ kinh như Trí Tuệ Ba la mật, Kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm. Từ thế kỷ thứ hai của kỷ nguyên chung trở đi, những tác phẩm có tính lý thuyết dựa trên những kinh văn đã được biên soạn. Trung Quán Tông (Madhyamika) dựa trên giáo lý liên hệ tới tính vô thực thể. Đầu tiên, tên gọi “Trung Quán” được sử dụng để chỉ cho trường phái này vì đối lập với truyền thống Đại Thừa không còn hiện diện. Chỉ sau khi Duy Thức Tông (Yogacara) hình thành vào khoảng một thế kỷ sau khi Trung Quán Tông tạo ra thuật ngữ ‘Trung Quán” để sử dụng. Duy Thức Tông dựa trên sự khảo sát một cách hệ thống giáo lý về thức. Đến những thế kỷ sau, cả hai truyền thống cùng tồn tại.

Ngay cả trước khi Duy Thức tông xuất hiện như một tông phái đặc thù, những kinh điển của Phật giáo Đại thừa cũng đã được biên soạn liên quan đến duy thức (vijnaptimatrata) và Phật tánh (tathagatagarbha, khả năng đạt thành Phật đạo). Trong số đó là kinh Phật Tánh (T 666-667), kinh Thắng man (T 310.48, 353) và Kinh Đại bát Niết bàn (T 374-375). Theo thời gian cả hai trường phái Trung Quán Tông và Duy Thức Tông và triển và ảnh hưởng lẫn nhau cũng như ảnh hưởng lên Phật giáo Mật Tông.

Ngay cả suốt giai đoạn Phật giáo Đại thừa bị tác động mạnh nhất, Phật giáo Nikaya vẫn còn hưng thạnh. Thật sự là Phật giáo Nikaya luôn mạnh hơn cả hai phong trào trên, điều này được thể hiện trong ký sự của những cuộc hành hương của nhưng nhà sư Trung Quốc đến Ấn Độ như Pháp Hiền (ở Ấn Độ từ năm 399-414), Huyền Tráng (602-664) và Nghĩa Tịnh (635-713). Vào thời điểm của Nghĩa Tịnh, sự khác nhau giữa Phật giáo Nikaya và Phật giáo Đại thừa ít rõ ràng và cả hai truyền thống bắt đầu hòa trộn vào nhau. Phật giáo Mật Tông sau đó trở nên nổi tiếng và quyền lực hơn, ảnh hưởng đến cả Phật giáo Nikaya và Phật giáo Đại thừa. Cuối cùng khi Bà la môn giáo trở nên mạnh hơn và Hồi giáo xâm chiếm Ấn Độ, Phật giáo mất đi sức mạnh của nó. Vào cuối thế kỷ thứ mười hai, tu viện Vikramasila bị phiến quân Hồi giáo đốt phá, sự kiện này đánh dấu sự biến mất của các tổ chức Phật giáo trên hầu hết lãnh thổ Ấn Độ. Phật giáo vẫn còn sống sót tuy nhiên chỉ ở khu vực phía Đông của vịnh Bengal nơi một nhóm nhỏ người dân thực hành Phật giáo bảo tồn cho đến ngày nay.

Sau cuộc xâm lăng của Hồi giáo, Ấn Độ giáo vẫn còn giữ sức mạnh. Kỳ na giáo vẫn còn tồn tại dù chỉ với một số lượng nhỏ người kế thừa, Phật giáo tuy nhiên đã biến mất ngay cả khi Phật giáo từng truyền bá và thống trị khắp Ấn Độ. Nghiên cứu những lý do về những số phận khác nhau của tôn giáo giúp làm sáng tỏ một số đặc điểm của Phật giáo Ấn Độ.

Phật giáo Ấn Độ đã không tạo được một lập trường học thuyết chính thống vững chắc và không kiên quyết từ chối bất cứ sự lệch hướng nào khỏi tính chất chính thống của Phật giáo. Do vậy, giáo lý Phật giáo dần bị biến đổi theo nhiều cách. Một trong những lý do khiến cho Phật giáo bị biến mất khỏi Ấn Độ có thể nằm ở chỗ thái độ dễ dãi của Phật giáo đối với sự hiểu biết về giáo lý. Sự tranh luận này không bao hàm rằng tính không kiên định của Phật giáo về sự đa dạng của học thuyết mà sai lầm. Do khả năng thấu hiểu của con người về Phật giáo là rất khác nhau kể cả bối cảnh lịch sử cũng có nhiều thay đổi. Điều đó thích đáng khi cho rằng Phật giáo phản ánh nhu cầu của tín đồ của nó. Tuy vậy, nếu Phật giáo có thể tiến triển một cách tự do thì khi đó khả năng Phật giáo có thể biến mất là có thể. Những học thuyết liên quan đến sự suy tàn và biến mất của Phật giáo “thực sự” đã lan truyền rất sớm từ trong lịch sử Phật giáo. Một trong những học thuyết có sức ảnh hưởng nhất ở Đông Á chia lịch sử Phật giáo thành ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.

Phật giáo không phải là một tôn giáo bắt buộc những người kế thừa nghiêm khắc trung thành đối với hệ giáo lý nào đó. Ấn Độ giáo cũng đã chấp nhận quan điểm linh hoạt này. Lấy ví dụ, giáo lý về Bhagavad-gita, một trong những kinh điển nổi tiếng của Bà la môn thừa nhận nhiều lập trường học thuyết khác nhau. Yêu cầu một sự chính xác không nhượng bộ đối với học thuyết là khá hiếm, hầu như chưa bao giờ tìm thấy ở Bà la môn giáo. Vì thế, quan điểm phóng khoáng đối với học thuyết tự nó không thể giải thích sự biến mất của Phật giáo ở Ấn Độ.

Phật giáo bác bỏ cái Tôi bất diệt và có thật (atman) trở thành một nhân tố quan trọng và học thuyết này còn tồn tại cho đến khi Phật giáo Nguyên Thủy. Phật giáo cạnh tranh với Ấn Độ giáo, Kỳ na giáo và các truyền thống tôn giáo khác khi tất cả đều tranh cãi về sự tồn tại của cái Ta thật có.

Thêm vào đó, các học thuyết chủ trương sự hiện hữu của atman gắn chặt với giáo lý về tái sinh. Bởi vì niềm tin vào tái sinh là một giáo lý quan trọng của tôn giáo Ấn Độ, Phật giáo cũng đã phát triển giáo lý này và giải thích nó. Mặc dù, tái sinh không phải là một học thuyết cần thiết cho giáo lý của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Mặc dù ngài không bác bỏ việc tái sinh, Đức Phật cốt yếu chỉ quan tâm tới sự giải thoát khỏi trạng thái khổ đau của con người. Nếu cuộc sống tồn tại vòng luân hồi sinh và tử thì khi đó sự giải thoát khỏi vòng luân hồi là một mục tiêu. Chính vì vậy mà Phật giáo Nguyên Thủy đã không cần bỏ qua học thuyết tái sinh. Thay vào đó, những học thuyết về tái sinh được kết hợp vào trong Phật giáo đặt ra mục tiêu tối thượng của hành giả Phật giáo là chứng đạt được sự giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

Nếu tái sinh được chấp nhận như một giáo lý của đạo Phật, khi đó cái gì là nguyên nhân cho sự tương tục từ kiếp sống này cho đến kiếp sống khác? Mặc dù Phật giáo không công nhận sự tồn tại của atman những cuối cùng họ phải công nhận sự tồn tại của một số thực thể hay động lực trải qua vòng sinh tử luân hồi và thực hiện tối thiểu một số chức năng của tiểu ngã atman đó. Quan điểm của Phật giáo Đại thừa về Phật tánh và tàng thức (alaya-vijnana) tương tự một số chức năng của tiểu ngã atman. Trong Phật giáo Nikaya, Thượng tọa bộ phát triển sự giảng giải một cách hệ thống và máy móc kiếp người và chứng minh không có tiểu ngã atman tồn tại. Tuy nhiên, Thượng tọa bộ đã mất đi rất nhiều sức mạnh của họ. Trái lại, Chánh lượng bộ (Sammatiya) đã đạt được sức mạnh trong thời gian sau đó, một phần bởi vì đặc tính hấp dẫn của sự tranh luận của họ về “cái ngã” sau cùng (puggala) tồn tại trong mỗi cá nhân. Ký sự của cả Huyền Tráng và Nghĩa Tịnh đều vạch ra rằng vào thế kỷ thứ bảy và thứ tám, Chánh lượng bộ đạt được thế mạnh nhiều hơn cả Thượng tọa bộ.

Phật giáo xuất hiện vào thời điểm có nhiều khổ đau. Giáo lý về tính phi thực thể và không tồn tại của cái Ngã thật có được nhấn mạnh bởi Đức Phật lịch sử. Tuy nhiên theo thời gian, giáo lý Phật giáo đã thay đổi và những học thuyết phát triển tương tự những quan điểm về tiểu ngã atman vẫn còn tồn tại trong các tôn giáo Ấn Độ. Khi giáo lý ngày một tiến triển, Phật giáo thực sự mất đi sự ảnh hưởng ở Ấn Độ. Vì thế, sự bác bỏ ngay từ đầu của Phật giáo về tiểu ngã atman chắc chắn là một trong những nhân tố dẫn đến sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ.

Giáo lý và các học thuyết về tái sinh đóng vai trò then chốt trong sự phát triển tư tưởng Phật giáo Ấn Độ. Trái lại, khi Phật giáo Ấn Độ được giới thiệu đến Trung Quốc và Nhật Bản, dù học thuyết tái sinh được chấp nhận như một phần của Phật giáo nhưng học thuyết này không đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển của Phật giáo Đông Á. Sự khác nhau xuất hiện bởi vì những tín ngưỡng truyền thống Trung Quốc và Nhật Bản về linh hồn và tinh thần không dựa vào học thuyết tái sinh.

Tóm lại, hai quan điểm sau là hai chủ đề chính có thể tìm thấy trong Phật giáo Ấn Độ. Đầu tiên, những yêu cầu căn bản của Phật giáo và sự giải thoát con người khỏi khổ đau là yếu tố thu hút nhất của Phật giáo. Thứ hai, lịch sử Phật giáo Ấn Độ gắn bó chặt chẽ liên quan đến sự hình thành công thức của các học thuyết giải thích cơ chế của sự tái sinh.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập