Sanh Tâm Vô Trú (Sách) - Phần 2

Đã đọc: 7722           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font

Sự lý nhân duyên quả báo rất phức tạp, hơn nữa nó liên hệ cả ba đời. Chúng ta chỉ cần để tâm quan sát, sự thật này có thể thấy trước mắt. Cho nên, không phải là không có quả báo, chỉ là thời gian chưa đến mà thôi.

 6.

 Đức Thế tôn thường dạy các đệ tử rằng, dù sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thuận cảnh cũng tốt mà nghịch cảnh cũng tốt, đều phải tu tập song song giữa Phước và Huệ. Chúng ta không nên nghĩ rằng mục tiêu tối hậu của sự tu tập là phải đạt cho được Vô thượng bồ đề hay siêu thoát tam giới. Kỳ thật, cuộc sống an lạc hạnh phúc chân chính chúng ta có thể đạt được ngay trong hiện tại. Như vậy nhân với quả mới tương ưng. Cái nhân tốt đẹp thì đương nhiên kết quả phải tốt đẹp. Phước và Huệ là nguyên tắc tu hành mà trong kinh Kim Cương gọi là: "phải phát triển cái tâm không ở vào đâu cả để thực hành bố thí". "Không ở vào đâu cả" có nghĩa là đối với tất cả các pháp đều không nắm giữ, chấp thủ. Thấu rõ được bản chất của các pháp, đồng thời buông bỏ tất cả, để cho tâm trống rỗng, không có vướng bận gì hết, hoàn toàn thanh tịnh, viên dung, tròn đầy. Đó là ý nghĩa mà đức Phật gọi là "vô trụ".

"Thực hành bố thí". Bố thí thì có nhiều nghĩa và nhiều cách. Đạo Phật của chúng ta lấy pháp giới chúng sanh làm đối tượng, cho nên, chúng ta phải dùng toàn tâm, toàn lực để chiếu cố đến tất cả mọi loài chúng sanh, giúp đỡ, phục vụ tất cả chúng sanh như chính bản thân mình. Như vậy mới có thể gọi là hiểu hai câu kinh mà đức Phật đã dạy. Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, mọi cử chỉ hành động đều có thể đạt được toàn thiện, toàn mỹ. Chẳng hạn, không hưởng thụ cho riêng bản thân mình cũng là một cách bố thí. Sự bố thí đó được gọi là làm một tấm gương sáng cho tất cả mọi người noi theo, khiến cho mọi người khi nhìn vào đều sinh tâm ngưỡng mộ, cung kính. Từ sự ngưỡng mộ, cung kính họ sẽ phát tâm đi đến với ta, cùng ta tu hành.

Thí dụ, có một gia đình nọ có nếp sống rất lành mạnh, văn hóa, mẫu mực, cố nhiên là chỉ lo cho gia đình họ, nhưng như thế cũng đã có thể làm một tấm gương sáng cho hàng xóm noi theo rồi.

Cho nên, bố thí tuyệt đối không phải là chỉ đem một ít tiền đến chùa cúng dường là xong, là đủ. Hiểu nghĩa bố thí như vậy là nông cạn lắm! YÙ nghĩa của sự bố thí rất rộng, rất sâu. Nhưng có thể nói một cách ngắn gọn, đó là làm một tấm gương tốt cho tất cả chúng sanh noi theo, là một cách bố thí. Cũng giống như chư Phật, Bồ tát làm một tấm gương sáng cho tất cả chúng ta noi theo vậy. Điều này chúng ta đã nói nhiều lần. Người học Phật cần phải thay đổi những quan niệm sai lầm. Đem cái tâm niệm của phàm phu đổi thành tâm niệm của Phật, Bồ tát; đem cách sống của phàm phu biến thành cách sống của Phật, Bồ tát.

Nói tóm lại, kẻ phàm phu thì khởi tâm niệm làm bất cứ việc gì cũng không ngoài mục đích có lợi cho riêng bản thân mình. Còn tâm niệm của chư Phật, Bồ tát làm bất cứ việc gì cũng muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nếu như chúng ta muốn học làm Phật, thì trước hết, phải dẹp bỏ cái tâm tự tư tự lợi cho riêng mình, ngược lại, phải phát khởi cái tâm làm lợi ích cho tất cả mọi người, mọi loài chúng sanh trong khắp hư không, pháp giới. Đó mới gọi là "học Phật", mới gọi là "giác ngộ".

Tại sao người đời không làm được những việc như vậy? Đức Phật đã hiểu rõ được sự thật chân tướng của nhân sinh và vũ trụ – vạn sự vạn vật tận cùng hư không, khắp cả pháp giới, đều do tự tánh biến hiện ra. Cho nên, hết thảy chúng sanh cùng một thể với bản thân mình, cái đó được gọi là "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi". Do đó, quý Ngài xem người khác giống như bản thân mình, với mình là một, không có gì khác biệt. Còn phàm phu không thể làm được là bởi vì họ còn mê muội, không biết được sự thật của vũ trụ nhân sinh là do tự tánh của mình biến hiện ra, lại cho rằng ở ngoài bản thân mình thật có sự vật hiện tượng. Vì vậy mà phát sinh ý niệm thương, ghét, chiếm hữu, tự tư tự lợi cho riêng bản thân mình, và đánh mất cái tâm rộng lớn vì lợi ích cho người khác, và không có ý nguyện vì lợi ích cho chúng sanh. Kẻ phàm phu ngu muội, quên mất tự tánh cho nên bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi; còn chư Phật, Bồ tát do thấy rõ tự tánh nên chỉ an trú trong nhất chân pháp giới(1). Ở trong những cảnh giới đó, cảm thọ hạnh phúc, khổ đau hoàn toàn khác nhau.

Chúng ta thử lấy một ví dụ đơn giản: Vì chúng sanh mê muội, cho nên phạm vi cuộc sống của chúng rất nhỏ, chỉ loanh quanh trong sáu nẻo luân hồi; mà ở trong sáu nẻo luân hồi ấy, sự sống, chết, xả thân, thọ thân phạm vi hoạt động còn nhỏ hơn nữa. Không phải chỉ chúng sanh ở Trung quốc, mà ở nước Mỹ cũng không ngoại lệ. Chúng ta thấy rất nhiều người cả một đời của họ không ra khỏi nơi mảnh đất mình sinh ra. Ở nước Mỹ, một số người thấy người khác thường đi du lịch nước ngoài họ cũng rất ngưỡng mộ. Đương nhiên, chúng ta sống trong cuộc đời này cũng có rất nhiều tiền tài, cũng có người rất giàu sang phú quý, cũng có tự do rất lớn, nhưng mà, không gian hoạt động của chúng ta, nói cho cùng, vẫn còn bị giới trong quả địa cầu này. Chúng ta không có cách gì để có thể thoát khỏi trái đất này để tiến thẳng vào hư không bao la, dù cho khoa tiến bộ đến mấy, cũng không thể đưa loài người thoát khỏi hành tinh này. Do đó có thể biết được rằng, chúng sanh mê muội là phải chịu rất nhiều đau khổ. Còn bậc thánh đã giác ngộ, giống như chư Phật, Bồ tát thì quý Ngài đi lại rất tự do, phạm vi hoạt động của quý Ngài nói nhỏ thì ba ngàn Đại thiên thế giới, nói rộng thì tận cùng khắp hư không pháp giới, không nơi nào là không đến được.

Như chúng ta đã biết, trong kinh Vô lượng thọ có nói, chúng sanh ở thế giới Tây phương cực lạc có không gian hoạt động giống như chư Phật, không hề khác biệt. Tận cùng khắp hư không pháp giới, tất cả các quốc độ của chư Phật, hễ họ muốn đi là đi, muốn về là về, trong tích tắc.

Chúng ta có nói đến khổ và vui, ở đây không cần phải dùng ví dụ khác, chỉ cần nhìn từ khía cạnh này, chúng ta cũng hiểu được một hai phần.

Như vậy, học Phật là để làm gì? Nói một cách tổng quát, là để phát triển cái không gian, phạm vi cuộc sống của chúng ta, và ở trong không gian đó chúng ta có tự do tự tại, đồng thời tuổi thọ của chúng ta cũng rất dài.

Mạng sống của chúng sanh trong lục đạo rất ngắn ngủi, không thể so sánh được với chúng sanh ở bên thế giới Tây phương cực lạc – tuổi thọ của mọi người đều vô lư?ng, vô biên. Đạo lý này phải thấu hiểu, sự thật này phải thấy rõ, thì chúng ta mới có thể giải đáp đúng đắn câu hỏi học Phật để làm gì? Vì sao phải thành Phật? Thành Bồ tát? Công đức và lợi ích thù thắng nhất của sự tu học chính là làm sáng tỏ được sự thật chân tướng này!

 7.

 Ngạn ngữ có câu: "gia hoà vạn sự hưng", nghĩa là gia đình trên dưới hòa thuận thì mọi việc đều phát triển tốt đẹp. Luận ngữ cũng có câu: "Lễ chi dụng, hòa vi quý", nghĩa là tác dụng của Lễ, quý nhất ở chữ hoà. Con người sống ở đời không thể tách rời khỏi xã hội, không thể tách rời khỏi tập thể, quần chúng để tự sinh tồn. Hay nói cách khác, tính tất yếu của con người là sống với và sống cùng mà không thể sống đơn lẽ, tồn tại độc lập với mọi cá thể khác. Sống trong xã hội, trong cộng đồng, trong tập thể, thì hoà hợp là điều quan trọng nhất. Cho nên, đức Thế tôn cùng với các đệ tử của Ngài đã phải chế định giới luật cho Tăng đoàn, cũng gọi là công ước của Tăng đoàn. Công ước đó không ngoài "sáu pháp hòa kính". Đây là điều mọi người ai nấy đều phải tuân thủ.

Cùng xuất gia tu học, bốn người sống chung với nhau, gọi là một chúng (hay một đoàn thể). Nếu như bốn người này đều có thể thiết lập cuộc sống bằng nguyên tắc tuân thủ sáu pháp hòa kính, thì đoàn thể này được gọi là Tăng đoàn. Vì vậy, một Tăng đoàn tối thiểu phải có bốn người, nhiều hơn nữa thì bao nhiêu cũng được. Chúng ta thấy trong Kinh Luận luôn luôn ghi nhận thuở đức Thế tôn còn tại thế, Tăng đoàn của Ngài có đến 1250 vị tỳ kheo. Đó là một Tăng đoàn rất lớn. Nhưng bất luận Tăng đoàn lớn hay nhỏ, tất cả đều phải tuân thủ sáu nguyên tắc sống chung, đó sáu pháp hòa kính.

Điều hòa kính thứ nhất là Kiến hòa đồng giải, tức là cùng chia sẻ những hiểu biết cho nhau, đóng góp ý kiến xây dựng đoàn thể trên tinh thần hòa hợp mà xã hội ngày nay người ta gọi là kiến lập công thức. Đây là cơ sở để một đoàn thể hòa hợp. Mục đích tu học của đoàn thể Phật giáo là đạt được minh tâm kiến tánh, lấy đó làm mục tiêu hàng đầu trong cuộc sống. Mọi người ai nấy đều tìm cầu giác ngộ, mong muốn được minh tâm kiến tánh, cho nên sự hiểu biết, kiến giải của họ sẽ tương đồng. Ví dụ, tu tập theo pháp môn Tịnh độ, thì ai nấy đều mong muốn được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, được gần gũi đức Phật A Di Đà, được chứng Vô sinh pháp nhẫn.

? ngoài xã hội, một công ty kinh doanh, từ ông giám đốc đến các nhân viên, mọi người ai nấy đều mong ước tìm kiếm lợi nhuận cho công ty mình. Làm thế nào để nắm lấy cơ hội làm ăn tốt, làm thế nào để phát triển công ty, làm thế nào để có lợi nhuận, đó là một bài toán, đòi hỏi phải có công thức để giải quyết. Công thức duy nhất đưa đến thành công đó là sự đoàn kết. Tục ngữ có câu: "Ba người một lòng, sức mạnh phá thép". Đó là nói về sức mạnh của sự đoàn kết. Đoàn kết là thành công. Ngoài đời cũng vậy mà trong đạo cũng vậy.

Điều hòa kính thứ hai là "Giới hòa đồng tu". Giới luật chính là những điều mà ngày nay người ta gọi là luật pháp, hiến chương, qui chế. Đức Phật vì chúng ta mà chế định giới luật, chúng ta phải tuân thủ. Cuộc cống của chúng ta không thể tách rời khỏi xã hội, cho nên pháp luật của thế gian chúng ta cũng phải tuân thủ. Trong đó bao gồm cả những phong tục, tập quán, quan niệm đạo đức của xã hội, tất cả đều phải tuân thủ, như vậy mới có thể tạo nên một xã hội hoà bình, hạnh phúc và giàu mạnh được.

Giống như trong một công ty, họ có chương trình, kế hoạch, quy tắc… và từ giám đốc đến nhân viên, ai cũng phải tuân thủ theo chương trình và kế hoạch đó.

Điều hòa kính thứ ba là: "thân hòa đồng trụ", điều hòa kính thứ tư là: "khẩu hòa vô tranh". Hai điều hòa kính này đều là sự biểu hiện cụ thể của "giới hòa đồng tu". Mọi người ai nấy điều cùng làm việc, cùng tu tập, không có ý kiến bất đồng, thì không có gì để tranh chấp.

Điều hòa kính thứ năm là "ý hòa đồng duyệt", có nghĩa là cuộc sống của mỗi người đều tràn đầy niềm vui trong pháp. Bất kể là đời sống riêng tư hay sống chung với đoàn thể đều có thể sống một cách hoan hỷ, vui vẻ. Tâm hoan hỷ là suối nguồn của đời sống an lạc và hạnh phúc. Đó là điều mà tất cả chúng ta đều có thể đạt được trong hiện tại.

Điều hòa kính thứ sáu là: "lợi hòa đồng quân". Lợi có nghĩa là lợi dưỡng, tức là những vật chất trong cuộc sống, mọi người đều được hưởng thụ bình đẳng. Trong Tăng đoàn, không kể là thầy, là trò hoặc là trụ trì, phương trượng, hòa thượng, tất cả đều là chúng thanh tịnh trong một chùa, thì mọi vật chất như y áo, cơm nước, thuốc men… đều phải được phân chia đồng đều như nhau. Giống như trong một công ty, lợi nhuận có được là do mồ hôi nước mắt của mọi nhân viên, cho nên tất cả đều được trả lương hợp lý. Đương nhiên, tính chất công tác không giống nhau, chức vụ không giống nhau, thì lương bổng bất đồng, nhưng không giống như trong Tăng đoàn, Tăng đoàn là hoàn toàn bình đẳng, tuyệt đối bình đẳng. Luật pháp ở thế gian là phân công lao động và trả lương theo công việc, gọi là quân bình xã hội.

Một đạo tràng tuân thủ "sáu pháp hòa kính", thì đạo tràng đó được gọi là Tăng đoàn như pháp, tức là được chư Phật hộ niệm, được Long thần hộ pháp ủng hộ.

? ngoài đời, nếu một gia đình có thể tổ chức cuộc sống theo lời đức Phật dạy, tuân thủ "sáu pháp hòa kính", thì gia đình đó được gọi là "gia đình hòa hợp". Trong một công ty, từ giám đốc đến nhân viên, ai nấy đều tuân thủ theo "sáu pháp hòa kính", thì công ty đó được gọi là "một đoàn thể hòa hợp". Bất cứ một tổ chức nào sống theo nguyên tắc "sáu pháp hòa kính" nhất định đều được chư Phật, Bồ Tát, Thiện thần gia hộ, nhất định đều được thành công. Tất cả chúng ta phải ghi nhớ và nhận thức rõ điều này để nổ lực thực hiện.

Nếu như những kiến giải, những hiểu biết của chúng ta về giáo pháp của đức Phật mà khác biệt với đại chúng, thì gọi là "kiến giải bất hòa". Nếu "kiến giải bất hòa" thì phải nhanh chóng cầu xin chúng Tăng chỉ dạy để lấy lại chánh kiến, còn bằng không phải lập tức rút lui ra khỏi Tăng đoàn, nếu không sẽ phương hại đến Tăng đoàn. Đó là quyết định chính đáng. Vì sao? Bởi vì nếu gây ảnh hưởng xấu đến Tăng đoàn thì không những chỉ bản thân mình không được lợi ích mà còn mang tội "phá hòa hợp Tăng".

Tội "phá hòa hợp Tăng" rất nặng. Đức Phật nói đó là cái tội phá hoại đạo tâm của đại chúng, và phá luôn cả con đường tu tập chứng quả của đại chúng. Ở ngoài đời, trong một công ty, thì gọi là phá hoại hạnh phúc và lợi nhuận của công nhân. Tạo cái nghiệp như vậy, quả báo như thế nào có thể đã biết được. Làm trở ngại lợi ích của người khác thì quả báo chính là bản thân mình cũng không có lợi ích; phá vở hạnh phúc của người khác thì quả báo chính là bản thân mình cũng không có hạnh phúc. Nhân quả báo ứng một đường tơ kẻ tóc cũng không sai. Đó là chân lý, từ xưa đến nay không hề thay đổi. Điều đó không thể không biết!

 8.

 Trong kinh đức Phật thường dạy: tài trí, công danh, giàu sang, phú quý là quả, mà tu tập bố thí tài vật là nhân; thông minh, trí tụê là quả, tu tập bố thí pháp là nhân; cơ thể khỏe mạnh, tuổi thọ lâu dài là quả, tu hạnh bố thí sự không sợ hãi (vô úy thí) là nhân.

Ở đời, không ai là không hy vọng mình được giàu sang phú quý, có địa vị quyền chức, được thông minh, trí tụê và có sức khỏe, sống lâu. Ai cũng mong muốn như vậy, thế nhưng họ chẳng biết tu nhân. Không có nhân thì làm sao có quả? Cho nên, chúng ta muốn có được quả báo như ý thì nhất định phải biết tu nhân. Cái nhân tốt thì nhất định có quả báo tốt, mà cái nhân xấu thì nhất định có quả báo xấu. Đó là đạo lý, là chân lý, là sự thật không thay đổi. Các bạn chắc đã đọc qua cuốn "Liễu phàm tứ huấn", do đó nhất định đã hiểu rõ vấn đề này. Và vì vậy, các bạn cũng biết được phải tu tập cái nhân như thế nào để được quả báo tốt đẹp.

Chúng ta thấy, hiện nay ở ngoài xã hội có không ít người giàu sang phú quý. Quan sát kỹ, chúng ta thấy họ cũng không có chỗ nào hơn người ta, họ cũng giống như những người bình thường khác. Thế tại sao ở trong xã hội họ lại có địa vị, được mọi người tôn trọng? Tại sao họ lại được giàu sang phú quý? Người đời nhìn thấy hiện tượng như vậy thì cảm thấy rất bất bình. Cho rằng ông trời không công bằng. Tại sao ta cũng có trí tụê, có năng lực hơn hẳn họ mà ta lại không có địa vị, không có quyền chức, không được giàu sang, ngược lại hằng ngày phải gánh chịu cuộc sống nghèo nàn, cực khổ? Vì chúng ta chỉ nhìn thấy những hiện tượng trước mắt, không nhìn thấy được nhân duyên trong quá khứ và tương lai, cho nên mới nảy sinh những ý tưởng bất bình như vậy.

Nếu như con người có thể thấy biết được quá khứ, hiện tại và tương lai, thì tâm của họ nhất định rất bình tĩnh. Vì sao? Vì họ hiểu được rằng, quả báo được giàu sang phú quý trong đời này là do trong đời trước người ta đã tu cái nhân thiện; còn tuy rằng đời nay có trí tụê, có năng lực mà vẫn chịu nghèo khổ, bần cùng là do trong quá khứ không gieo trồng phước thiện. Cho nên, tu nhân gì thì được quả nấy, đó chính là cái điều mà ông bà mình hay nói ‘trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu’, định luật nhân quả báo ứng ấy không hề thay đổi.

Có người hỏi rằng: đời trước tôi không tu tập hạnh bố thí tài vật, trong đời này không thể giàu sang phú quý, vật chất đầy đủ hay sao? Xin trả lời: nhất định là như vậy. Biết được đạo lý này thì ngay bây giờ phải bắt đầu nổ lực tu học đúng như pháp, vài năm sau, nhất định sẽ thấy quả báo hiện tiền. Những sự việc ghi lại trong sách "Liễu phàm tứ huấn" là một bằng chứng.

Sự thật trong cuộc đời này có rất nhiều người tu hành và đạt được quả báo giống như tiên sinh Liễu phàm. Chỉ là cư sĩ Liễu phàm đem sự việc tu hành của bản thân mình ghi lại thành sách; còn những người khác, họ cũng tu tập và đạt được kết quả như tiên sinh Liễu phàm, thậm chí còn đạt được quả báo thù thắng vi diệu hơn nữa, nhưng những người này không viết lại thành sách mà thôi. Nếu như chúng ta quan sát kỹ, thì từ xưa đến nay, trong nước cũng như nước ngoài, đâu đâu cũng có sự thật quả báo nhãn tiền. Đủ biết đó là sự thật, không phải điều hư vọng. Cho nên, chúng ta bất tất phải ngưỡng mộ những người giàu sang phú quý, mà quan trọng hơn hết là phải nhận thức vấn đề nhân quả ấy để nổ lực tu hành.

Nếu như không biết nỗ lực bỏ ác làm lành, thì dù có giàu sang phú quý cách mấy cũng khó mà duy trì được lâu dài. Từ xưa đến nay, những gia đình phú quý khó có ai giàu được cả ba đời, thậm chí trong một đời cũng khó mà duy trì. Cho nên ông bà mình mới nói "không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời". Những việc như vậy chúng ta thấy trong xã hội hiện tại rất nhiều. Có người làm ăn phát đạt, tiền tài bạc tỷ, địa vị cao sang, nhưng không được mấy năm, tất cả đều tiêu tan hết; họ vi phạm pháp luật và bị truy tố. Vấn đề nhân quả trong đó rất phức tạp. Được làm ăn phát đạt một thời gian như vậy là do trong quá khứ họ đã gieo trồng cái nhân thiện. Nhưng họ không thể duy trì được là bởi vì mê muội, vô tri, ngang tàng làm điều tội lỗi, cho nên mới tán gia bại sản chỉ trong chớp mắt. Đó là điều thật đáng tiếc. Những sự việc như vậy diễn ra trước mắt là một bài học cho tất cả chúng ta.

Thấy những người thành công, chúng ta cần phải học tập; thấy người thất bại, chúng ta phải tỉnh ngộ, quyết không đi theo con đường sai lầm của họ. Đó mới là người thật sự thông minh, biết bỏ ác làm lành, tích lũy công đức, sáng tạo một ngày mai tươi sáng. Cần phải có con mắt tinh tế, biết nhìn xa trông rộng mới có thể tiếp nhận được lời dạy dỗ của đức Thế tôn: "Tu phước nhưng không nhận phước đức", điều đó cũng có nghĩa là chúng ta tận tâm tận lực tu phước nhưng không hưởng thụ phước, đó mới là phước báo vô lượng!

Vì sao tu phước mà không hưởng phước mới là phước lớn? Trong nhà Phật thường nói: "Nguyện đem công đức này, trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh". Có nghĩa là lấy cái công đức tu tập đó cầu nguyện được sanh sang cõi Tịnh, thì chắc chắn được sanh trong thượng phẩm, mau sớm thành Phật, điều đó không phải là phước đức không thể nghĩ bàn sao? Nếu như chỉ lo hưởng phước, thì không dễ gì thoát khỏi ba cõi. Hưởng phước mà biết tu tạo thêm phước, thì tương lai có thể được hưởng phước báo sanh lên cõi trời hoặc cõi người; còn nếu hưởng phước mà không lo tu tạo thêm phước, thì ngay trong đời này tuổi thọ ngắn ngủi, và đời sau thì không được làm người. Vì vậy mà trong kinh đức Phật thường nói "Thật đáng thương thay". Chúng ta phải biết tỉnh ngộ, phải nhận thức đúng đắn và học tập theo những lời Phật dạy để bản thân, gia đình và sự nghiệp, tất cả đều được tốt đẹp, như ý. Phật pháp có thể giúp chúng ta làm được như vậy. Điều đó đuợc gọi là "Phật ở khắp nơi, có cầu sẽ ứng".

 9.

 Chữ Phật có nghĩa là giác ngộ. Học Phật có nghĩa là học làm người giác ngộ, tức là "phá mê khai ngộ". Tâm giác ngộ là tâm Bồ Tát, ngược lại, cái tâm mê hoặc điên đảo là cái tâm sinh tử luân hồi. Dùng cái tâm sinh tử luân hồi mà tu tất cả các pháp thiện thì cũng vô ích, cũng không thể thoát khỏi luân hồi. Tuy nhiên vẫn có được phước báo. Phước báo đó, theo như trong kinh nói, sẽ được sinh vào một trong sáu nẻo luân hồi nằm trong ba cõi, mà phước báo cao nhất là được sinh vào cõi Đại phạm thiên. Vua của cõi trời Đại phạm thiên vẫn là phàm phu, cũng không có cách gì để có thể thoát khỏi sự trôi lăn trong sáu nẻo. Hưởng hết phước báo rồi lại bị đọa lạc, luân hồi. Cho nên, làm Thượng đế cũng không phải là cứu cánh.

Học Phật cần phải có một cái tâm giác ngộ. Tâm giác là tâm thanh tịnh. Cho nên, người học Phật phải luôn luôn giữ cho cái tâm của mình được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chính là tâm giác ngộ, trong tâm không có nghi hoặc, không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, luôn luôn sống với cái tâm thanh tịnh, bình đẳng. Trong cuộc sống hằng ngày, bất kể chúng ta làm việc gì, ở đâu, tiếp xúc với ai, đều phải giữ cái tâm không nghi hoặc, không vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sống với cái tâm thanh tịnh. Giữ đư?c cái tâm thanh tịnh như thế thì đó chính là "lục độ vạn hạnh" của Bồ Tát tu tập. Điều đó cho thấy Bồ Tát tu tập không tách rời cuộc sống, từ trong cuộc sống này mà tu tập thành tựu hạnh nguyện Bồ Tát một cách viên mãn. Không cần phải thay đổi cách sống và môi trường làm việc, đó mới là tinh thần của Phật giáo Đại thừa.

Trong kinh luận Đại thừa thường nói "lý sự vô ngại, sự sự vô ngại", chúng ta phải lãnh hội cho được ý nghĩa của câu kinh này. Hoàn cảnh xã hội, môi trường làm việc, tính chất công việc, phương pháp làm việc của mỗi người có thể khác nhau, nhưng tất cả đều có thể thực hành tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát và thành tựu đạo hạnh như các bậc Bồ Tát. Thực hành được như vậy chính là thể hiện tinh thần "lý sự vô ngại, sự sự vô ngại".

Tâm của Bồ Tát là chân thành, thanh tịnh, từ bi; hạnh của Bồ Tát là lìa tất cả các tướng, tu tất cả các điều thiện. Tu tập được như vậy thì có được an lạc, hạnh phúc mỹ mãn ngay trong hiện tại. Chỗ khác biệt giữa phàm phu với Bồ Tát là: phàm phu thì chỉ biết lo cho bản thân mình, còn Bồ Tát thì trong mỗi ý niệm đều nghĩ đến cứu độ chúng sanh, vì tất cả chúng sanh mà phục vụ. Dù làm tất cả những việc ấy, trong tâm của Bồ Tát vẫn không phân biệt, chấp trước, cho nên "làm mà coi như không làm, không làm mà làm tất cả". Điều đó có nghĩa là tuy làm mọi công việc, nhưng trong tâm thì coi như không làm việc gì hết. Vì vậy mà tâm của các ngài luôn luôn thanh tịnh, trong sáng. Đó là chỗ khác biệt giữa phàm phu và Bồ Tát.

Kẻ phàm phu thì làm việc gì cũng đắn đo, phân biệt, chấp trước, có tu có được. Trong tâm chỉ có một ý niệm mê mờ, luyến ái, chấp thủ. Vì không thể nào thoát khỏi ý niệm vô minh, luyến ái, chấp thủ cho nên mãi mãi bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi, không bao giờ thoát khỏi tam giới, không bao giờ tu hành được chứng quả. Đừng nói đến là quả vị của Bồ Tát Đại thừa, mà ngay cả quả vị đầu tiên (sơ quả) của Tiểu thừa cũng không đạt được, niệm Phật cũng không thể vãng sinh. Điều kiện cần và đủ để người niệm Phật có thể vãng sinh là thân tâm phải thanh tịnh. Trong tâm nếu còn một chút tham đắm, luyến ái đối với hoàn cảnh thế giới, với tất cả mọi việc trong sáu nẻo không thể nào buông bỏ được thì không bao giờ được vãng sinh. Điều này những người mong muốn cầu vãng sinh không thể không biết. Cho đến những vấn đề như cuộc sống trong tam giới, trong lục đạo so với cuộc sống siêu thoát ngoài tam giới, ngoài lục đạo khác nhau như thế nào, chúng ta đều phải biết một cách thấu đáo, rồi sau mới làm phát khởi cái tâm từ bỏ luân hồi, cầu thành Phật đạo.

Con người nếu không thoát khỏi được tam giới thì phạm vi cuộc sống của họ chỉ luẩn quẩn trong sáu nẻo luân hồi, không gian cuộc sống rất nhỏ bé, và đương nhiên cuộc sống cũng rất khổ đau. Thí dụ, cuộc sống của trời Phạm thiên vương, mặc dù phạm vi sinh hoạt của ông ta là bao quát cả lục đạo, nhưng nói cho cùng thì cũng chỉ trong ba cõi mà thôi, không thoát ra ngoài sáu nẻo luân hồi được. Ngày nay chúng ta được làm thân người, sống trong lục đạo cũng rất đáng thương! Phạm vi cuộc sống của chúng ta không ra khỏi quả địa cầu này. Nếu như sinh vào đường súc sinh, thí dụ làm một con chó người ta nuôi trong nhà chẳng hạn, thì phạm vi sinh hoạt của nó không ra khỏi ngôi nhà của chủ. Chúng ta phải hiểu điều này, trong lục đạo, địa vị và phạm vi sinh hoạt của chúng ta rất nhỏ bé, rất đáng thương! Đó là nguyên do vì sao đức Phật dạy chúng ta phải cố gắng tu tập thành Phật, thành Bồ Tát. Mục đích là muốn chúng ta có một không gian cuộc sống bao la không giới hạn.

Trong đời này, chúng ta chỉ có một điều duy nhất để nắm giữ, một việc lớn nhất để làm, đó là cầu nguyện được vãng sinh sang thế giới Tây phương cực lạc. Sau khi sinh sang thế giới Tây phương cực lạc, phạm vi không gian cuộc sống của chúng ta, giống như trong kinh "Vô lượng thọ" đã nói, là tận cùng hư không, biến khắp pháp giới, giống như thế giới của các chư Phật. Trong mười phương quốc độ của chư Phật, nghĩ đi liền đi, nghĩ về liền về, rất tự do tự tại! Còn trong sáu đường luân hồi thì rốt cuộc không thể thoát khỏi quả báo sinh tử ‘xả thân thọ thân’, nghĩ đến thật nói không hết khổ!

Được sinh sang thế giới Tây phương cực lạc thì tuổi thọ vô lượng vô biên, mãi mãi không bị sinh tử luân hồi. Tướng mạo thân thể thì tùy theo ý niệm của tất cả chúng sanh mà biến hóa ra, giống như trong kinh "Phổ môn" đã nói: "Chúng sinh muốn được độ bằng hình thức thân thể như thế nào, liền hiện ra thân như thế ấy để độ". Tôn Ngộ Không có 72 phép biến hóa, người đời ai nấy đều ngưỡng mộ, trong khi đó thần thông biến hóa của chư Phật, Bồ Tát thì vô lượng vô biên, không giới hạn, không phải tư duy, tưởng tượng của con người có thể hiểu hết được, lại còn có quả báo rất thù thắng và cuộc sống hạnh phúc rất mỹ mãn, tại sao chúng ta lại không muốn? Nếu như thật sự muốn vãng sinh sang thế giới ấy thì nhất định phải đem cái tâm niệm tham luyến thế giới này buông bỏ hết, lấy cái tâm thanh tịnh chân thành niệm Phật. Trong một đời này nhất định thành tựu, tuyệt đối không quá.

 10.

 Người niệm Phật vì sao không được vãng sinh? Đây là vấn đề rất quan trọng. Người xưa nói, niệm Phật là pháp môn mà vạn người tu thì vạn người được vãng sinh. Nhưng vì sao ngày nay chúng ta thấy cả vạn người tu niệm Phật mà khó có được một hai người vãng sinh, nguyên do vì sao?. Có phải là người xưa nhìn sai, nói sai? Kỳ thật thì chư vị cổ đức không nói sai, cũng không nhìn sai. Người niệm phật cầu vãng sinh mà không được vãng sinh Tịnh độ, nguyên do ở tại bản thân mình. Nói một cách cụ thể thì nguyên do đó không ngoài hai điều sau:

 

Một là do trình độ nhận thức về tông Tịnh độ, về phương pháp niệm Phật và về cảnh giới Tây phương không được rõ ràng, chính xác. Thêm nữa là quá trình tu tập hành trì còn có tâm nghi ngờ, còn tạp niêm, còn gián đoạn, công phu tu tập chưa thuần nhất, chưa nổ lực tinh tấn.

 

Hai là, mặc dù đối với pháp môn Tịnh độ đã có nhận thức, đã có phương pháp và cũng hiểu biết về cảnh giới Tây phương rõ ràng, nhưng không thể buông bỏ một cách dứt khác các duyên nợ của cuộc đời, vẫn còn có tâm tham luyến thế gian, cho nên đến giờ phút lâm chung sinh lòng luyến tiếc, làm trở ngại việc vãng sinh. Đây là điều rất đáng tiếc!

Có một cuốn sách đang lưu hành trong thế gian, mà bản cũ có tên gọi là: "Chuẩn bị cho cái chết", sau này người ta viết lại cuốn này bằng văn bạch thoại với tên gọi mới là: "Những điều cần biết trước khi chết"(1), mọi người đều có thể tìm đọc. Cuốn sách này rất quan trọng, nó chỉ dạy cho người niệm Phật biết, trước lúc lâm chung, tất cả những người thân trong gia đình điều tốt nhất cần phải làm là tránh gây sự xúc động tình cảm, vì như vậy có thể làm cho người chết mất cơ hội vãng sinh, rất đáng tiếc!

Đó là chưa kể đến những chư?ng duyên khác. Chẳng hạn, không cần phải nói đời trước, ngay đời này, chúng ta cùng với chúng sanh đã gây cho nhau biết bao ân oán. Những ân oán oan trái này nó tiềm ẩn bên trong tâm thức, luôn luôn thúc đẩy sự báo thù, cho nên nơi nào cũng có ma chướng. Công phu tu tập của bản thân mình nếu không đủ định lực, không đủ niệm và định, thì lúc lâm chung những ân oán, những oan trái, hiềm hận ở trong tâm trở thành ma lực làm chướng ngại sự vãng sinh của ta.

Vì vậy, lúc bình thường chúng ta phải nổ lực tu tập, đến lúc lâm chung mới vượt qua được chướng ngại, đạt được mục đích vãng sinh Tịnh độ, tức cũng được gọi là giác ngộ. Cần phải nhận thức được thế giới Ta bà và sáu nẻo luân hồi là khổ đau, cho nên đặt quyết tâm không ở lại trong đó, quyết tâm giải thoát. Ph?i nhận thức việc niệm Phật cầu vãng sinh sang thế giới Tây phương cực lạc là quan trọng nhất, là phương pháp đạt được hạnh phúc tuyệt đối, là con đường đưa chúng ta thoát khỏi sinh tử luân hồi trong ba cõi, vĩnh viễn xa lìa khổ đau, thành tựu quả vị Phật. Phải tin rằng trong một đời này nhất định chúng ta sẽ được chứng đắc. Phải đem cái tâm tham đắm thế giới buông bỏ và làm cho cái tâm thanh tịnh của mình hiển lộ, trong tâm thanh tịnh không có bóng dáng của sự ô nhiễm.

Cái mà người đời ai cũng tham luyến là của cải vật chất, tiền bạc, công danh, giàu sang, địa vị, quyền lực; và ai cũng có tinh thần hưởng thụ; cho đến những tình cảm trong gia đình, tất cả đều là những ma chướng. Những thứ này không thể không từ bỏ, không thể không buông xả. Làm được như vậy thì cái mục đích mong muốn được vãng sinh Tịnh độ của chúng ta mới không bị trở ngại.

Trong cuốn "Niệm Phật luận", phần cuối, pháp sư Đàm Hư có ghi lại rất nhiều trường hợp người niệm Phật được vãng sanh do chính mắt Ngài chứng kiến, chỉ kể ra những trường hợp đặc biệt, còn kèm theo lời khai thị của lão pháp sư trong Phật thất. Trong đó có hai vị đệ tử của pháp sư Đế Nhàn, một vị tham thiền, một vị niệm Phật; còn có lão pháp sư trú trì chùa Đầu Đà, trong chùa này còn có sự tích của một đôi gà trống niệm Phật được vãng sanh. Đó là những trường hợp vãng sanh thời cận đại, được tập hợp lại in chung trong một cuốn sách nhỏ để phổ biến xa gần.

Chúng ta quan sát kỹ càng những vị thiện tri thức này, vì sao họ được vãng sanh một cách tự tại an nhàn như vậy? Chẳng có gì khác, vì họ đã buông bỏ được tất cả mọi duyên ràng buộc của cuộc đời. Cho nên, không những họ biết trước được giờ chết, mà thân còn không mang bệnh tật, có người đứng mà vãng sanh, có người ngồi mà vãng sanh. Đó thật sự là đại sự nhân duyên hy hữu, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay. Điều này thì Đại Phạm Thiên, vua của ba cõi, tuyệt đối không thể so sánh được. Chúng ta phải nhận thức rõ điều này để phát tâm chân thật, lấy những bậc thiện tri thức ấy làm gương, nổ lực tu tập như họ. Họ có thể tu tập thành tựu, vì sao chúng ta không thể làm được? Nhất định phải tìm cho ra nguyên nhân nào đã khiến cho bản thân mình tu tập không thành tựu để kịp thời sửa đổi. Đồng thời phải học hỏi, xem xét nguyên nhân nào đã khiến người ta tu tập thành công. Chúng ta phải học tập, nghiên cứu cho tường tận. Như vậy mới hy vọng trong một kiếp này quyết định vãng sanh Tịnh độ. Thực hiện được lý tưởng này, trong Phật pháp gọi là thành tựu viên mãn "đại sự nhân duyên".

Bản thân mình tu tập thành tựu thì sẽ cảm hoá được chúng sanh, bản thân mình thực hành thì người khác sẽ noi theo. Cho nên, thân giáo là hiện thân thuyết pháp, so với dạy bằng lời thì có hiệu quả hơn nhiều, có thể khiến kẻ thấy người nghe đều khởi tâm giác ngộ, phát đại nguyện cầu sanh Tịnh độ. Công đức này thật là vô lượng vô biên, phước huệ tự nhiên đều nằm trong đó.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

3.00

Tags

Đăng nhập