Sáng Tối Do Người

Đã đọc: 3987           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Khi đến chùa nghe pháp, chúng ta cố gắng học hiểu rõ ràng nghĩa lý lời Phật dạy, để rồi sau khi ra về nhớ đó mà ứng dụng, thực hành. Nghe học như thế thật sự mới có lợi ích thiết thực và xứng đáng là người Phật tử. Nếu đã đến chùa khi nghe thì hiểu, khi về thì quên, nên đụng chuyện phát sinh đủ thứ phiền não, làm cho mọi người mất niềm tin và không còn muốn tu học nữa. Tu học như thế vô tình phỉ báng Phật pháp; cho nên, chúng ta phải cố gắng tu học trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa u mê, tối tăm thành trong sáng, thanh tịnh, chuyển hóa khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Tu học như vậy mới xứng đáng là người con Phật.

HẠNH PHÚC HAY KHỔ ĐAU ĐỀU DO MÌNH TẠO LẤY

Trong khoảng trời đất bao la này, tùy theo phước nghiệp của thế nhân mà chúng sinh có hình dạng sai khác; tùy theo nhận thức của mỗi người mà tạo ra thói quen để có kết quả trong hiện tại và tương lai. Cho nên, cũng đồng là người nhưng mỗi người mỗi khác, không ai giống ai. Mặt trời lúc nào cũng chiếu soi khắp nơi, nhưng chúng sinh căn tánh có sai biệt, do đó tạo ra thiên hình vạn trạng, mỗi người, mỗi cảnh. Cũng đồng là người nhưng kẻ đen người trắng, kẻ thấp người cao, kẻ tốt người xấu, kẻ được người mất, kẻ hơn người thua, kẻ thành người bại v.v…

Không phải ngẫu nhiên con người được sinh ra quyền cao chức trọng, giàu sang tột đỉnh hay bần cùng khốn khổ, đói rét khó khăn; khổ đau hay hạnh phúc đều do con người tạo lấy. Mỗi bản thân cá nhân quyết định sự sống của chính mình, không ai có quyền ban phước giáng họa để tạo ra sự hiểu lầm về kiếp nhân sinh, như quan niệm của thời xa xưa cho rằng con người phải chấp nhận số phận đã an bài, trước sau như một, không thể nào thay đổi được. Trời đã định đoạt sắp đặt thì phải chịu, nhưng trời ở đây mang ý nghĩa giá trị của luật nhân quả luôn âm thầm tác động, chi phối mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này; làm lành được hưởng phước tốt đẹp, làm ác chịu quả báo khổ đau, vì thế sáng hay tối đều do mình tạo lấy.

Mặt trời chân lý luôn soi sáng khắp nơi, soi rọi khắp mọi nẻo đường, luôn hướng đến nhân sinh và chan hòa cùng tất cả, nhưng vẫn không đáp ứng hết nhu cầu cần thiết cho con người và vạn vật. Vì vậy mà có sự sai biệt tạo nên mỗi hình, mỗi vẽ, mỗi cảnh, mỗi hoa. Đạo Phật không dừng lại ở số phận hẩm hiu hay phó thác cho cuộc sống đã an bài, mặc tình thả trôi theo dòng đời để tự mình hủy diệt chính mình, rồi ngồi đó than thân, trách phận. Trong khi đó, hoa vẫn nở, trời vẫn trong, mây vẫn bạc, suối vẫn reo, như hòa cùng khúc nhạc lòng luôn vang vọng khắp muôn nơi. Mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa của nó, sáng tối đều do mình tạo ra. Con người là một tài sản vô giá lớn nhất không thể nào phủ nhận được, nếu chúng ta biết đem tài sản vô giá đó ra xài thì việc gì con người cũng làm được.

Một gia đình, một xã hội, một thế giới cần rất nhiều người nhiệt tình, có tài năng và đạo đức, luôn vì lợi ích chúng sinh mà phục vụ thì mới có thể giúp ích cho con người, cho xã hội được một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Do đó, việc giáo dục con người không phải dễ dàng, điểm thiết yếu là làm sao giáo dục có văn hóa và đạo đức để mỗi người ý thức được trách nhiệm và bổn phận của chính mình. Do đó, vai trò giáo dục để phục vụ con người không quan trọng ở vị trí, chức danh, mà phải làm sao giáo dục cho tất cả mọi người thật sự sống có ích cho tha nhân và xã hội; giáo dục không chỉ lý thuyết suông mà cần phải ứng dụng thiết thực vào trong đời sống hằng ngày, sáng hay tối đều do con người quyết định. Nếu ta chấp nhận có một đấng siêu hình nào đó đã sắp đặt, định đoạt số phận cho con người thì vô tình chúng ta đẩy con người vào vị trí tối tăm, con người mất hết quyền làm chủ và cuối cùng bị nô lệ phục dịch cho đấng tối cao.

Trong khi đó, con người có khả năng học hiểu, tư duy, quán chiếu, làm được những điều khó làm mà các loài khác không thể làm được. Điều này các nhà khoa học xác quyết một cách rõ ràng, nhờ sự cầu tiến của con người mà thế giới có nhiều thay đổi tốt đẹp và tiến bộ không thể ngờ. Sáng tối đan xen lẫn nhau, khi ánh sáng có mặt thì bóng tối tự nhiên biến mất; nhưng tối tăm lúc nào cũng lấn chiếm ánh sáng chân lý, vì thế mà tạo ra mâu thuẫn cuộc đời. Đạo Phật không dừng lại ở nơi tối tăm, luôn dùng ánh sáng trí tuệ để chuyển hóa si mê và u tối thành trong sáng, hiện thực. Có 4 loại ánh sáng để chuyển hóa tối tăm: Ánh sáng mặt trời; Ánh sáng mặt trăng; Ánh sáng của lửa; Ánh sáng trí tuệ.

Ánh sáng mặt trời có công năng soi sáng được ban ngày, giúp cho vạn vật sinh sôi, nẩy nở và phát triển một cách hài hòa, nhưng chỉ được ban ngày; đôi khi vẫn bị mây mù, mưa gió, bão bùng, che khuất, do đó ánh sáng mặt trời chỉ chiếu soi một nửa, nên chỉ soi sáng trong giới hạn. Ngoài ra, ánh sáng mặt trời còn được sử dụng trong công nghiệp, y học, phục vụ con người và cuộc sống…

Ánh sáng mặt trăng cũng vậy, giúp cho ban đêm được trong sáng để con người ngồi lại bên nhau cùng tâm tình, thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên. Ánh sáng mặt trời soi sáng ban ngày, ánh sáng mặt trăng soi sáng ban đêm, nên vẫn hạn chế ở một mức độ nào đó. Ánh sáng mặt trăng có thể tạo cảnh quan thôn dã, soi sáng con đường làng, là đề tài sáng tác văn học cho thi nhân…

Ánh sáng của lửa giúp con người chuyển hóa được lạnh lẽo, giúp con người ổn định an sinh đời sống hằng ngày bằng những món ăn tinh khiết để duy trì sự sống. Về mặt tích cực, lửa giúp con người an sinh đời sống hằng ngày; nhưng ngược lại, lửa có thể thiêu đốt tất cả nếu chúng ta bất cẩn và sử dụng không đúng chỗ. Vì vậy, 3 loại ánh sáng mặt trời, mặt trăng và lửa nếu chúng ta biết sử dụng hài hòa thì sẽ đem lại lợi ích lớn cho con người, còn không thì tác hại của nó có thể hủy diệt hết tất cả. Do đó, chỉ có ánh sáng trí tuệ mới đủ sức chuyển hóa những nỗi khổ, niềm đau của kiếp người thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Ánh sáng trí tuệ cũng có hai loại:

_ Trí tuệ thế gian: Thường thế gian ai thông minh, lanh lợi, biết được nhiều việc hoặc học cao hiểu rộng, thì được cho là người có trí tuệ; nhưng trí tuệ này do học mà được nên xuất phát từ lòng tham của con người. Vì vậy, họ si mê, chấp ngã càng cao, thấy mình là trung tâm của vũ trụ, thấy mình là thầy thiên hạ, nên độc tài thao túng, dùng mưu ma chước quỷ để bình thiên hạ, tạo ra ân oán, oan gia trái chủ, dùng miệng lưỡi biện tài vô ngại để lung lạc lòng người, nói một đường làm một nẻo, chẳng khác gì con vẹt bắt chước nói tiếng người. Bởi nói được mà làm chẳng được, nên có địa vị cao trong xã hội càng làm tổn hại cho nhiều người. Do ý thức vận hành của sự chấp ngã sai khiến nên càng làm tổn hại nhiều cho thiên hạ; như sự nghiệp của Tần Thủy Hoàng, vì muốn gôm thâu lục quốc mà máu người biến thành biển cả. Do lòng tham chi phối và sai sử nên con người đa số đều xây dựng sự nghiệp của mình bằng xương máu của thiên hạ. Sử sách còn ghi lại biết bao ông vua thời phong kiến vì chủ nghĩa cá nhân mà tàn sát, giết hại vô số con người.

Do đó, trí tuệ thế gian chỉ giúp con người tăng trưởng thêm lòng tham vô bờ bến. Vì vậy, nếu ai là người tài giỏi thì cần phải học hỏi và trau dồi đạo đức để nâng cao sự hiểu biết, giúp nhân loại bằng tình thương yêu chân thật. Nhờ có tu tập chúng ta mới biết được giá trị thật giả của cuộc đời, do đó dễ cảm thông, chia sẻ, bao dung và tha thứ để không làm tổn hại cho nhau.

_ Trí tuệ xuất thế gian: Để không nhầm lẫn với trí tuệ thế gian, nhà Phật gọi là trí tuệ bát nhã, nhưng trí tuệ xuất thế gian cũng có ba loại: Trí tuệ lộn ngược, trí tuệ bắp vế, trí tuệ rộng lớn

+ Trí tuệ lộn ngược: là loại trí tuệ không phân biệt được đầu đuôi, trước sau một cách rõ ràng, nó giống như cái bình lật úp trở lại, dù có chế nước vô bao nhiêu cũng bị tràn ra, không chứa được chút nào. Hạng người này tuy có nhiệt tình học hỏi nhưng không có định tâm tỉnh giác, tuy có cố gắng học lời Phật dạy nhưng vì nghiệp chướng sâu dày nên chẳng hiểu biết gì hết. Do đó, thế gian thường gọi hạng người này như nước đổ lá môn, như nước xao đầu vịt, đổ vô bao nhiêu cũng bị trôi đi hết, nên nói là trí tuệ lộn ngược.

Khi đã đến chùa nghe pháp, học xong trả lại cho thầy, thật là uổng công, vô ích biết chừng nào! Tu học như thế biết đến bao giờ mới được trí tuệ rộng lớn. Phật pháp tuy khó nghe, nhưng chúng ta đang nghe và đã nghe, chẳng lẽ nghe xong rồi trả lại cho thầy hay sao? Nếu có, chúng ta phải sanh tâm hổ thẹn, biết đây là nghiệp chướng sâu dày do nhiều đời không gieo trồng hạt giống trí tuệ, nên bây giờ mới bị lú lẫn, ngu ngô như thế. Biết được như vậy, chúng ta hãy nên thành tâm sám hối, cố gắng siêng năng, tinh tấn học hỏi chuyên cần. Tại sao có người nghe một hiểu mười, nghe mười hiểu trăm, còn ta nghe xong chẳng hiểu gì hết. Bởi ta không gieo nhân thông minh trí tuệ, nên phải chậm lụt hơn người và kém hiểu biết. Biết được vậy rồi, chúng ta phải làm sao cố gắng học hỏi, suy tư, quán tưởng. Ta không gieo nhân trí tuệ thì làm sao có quả trí tuệ. Có người sở dĩ thông minh, sáng suốt là do đã học hỏi và huân tập nhiều đời, không có gì là do bỗng nhiên khi không mà có được.

Thời Phật còn tại thế có một tăng sĩ tên là Châu Lợi Bàn Đặc, cùng xuất gia một lượt với anh mình, cùng nghe giảng pháp và tu tập như nhau. Vậy mà người anh lại biện tài vô ngại và chứng quả A La Hán, còn người em không thuộc nỗi một bài kệ 4 câu, dù thầy đã cố gắng hết sức để học nó suốt mấy tháng trời. Người anh thấy thế, sợ em mình thọ dụng của đàn na tín thí mà không tu tập được sẽ bị tổn phước, bị người đời chê trách, nên khuyên em mình hãy nên hoàn tục, về sống đời cư sĩ tại gia nuôi dưỡng cha mẹ, bố thí cúng dường, giúp đỡ chia sẻ khi gặp người khó khăn, hoạn nạn để gieo trồng phước đức.

Ngược lại, Lục tổ Huệ Năng cũng dốt nát, quê mùa, làm nghề đốn củi nuôi mẹ, chỉ nghe một câu kinh liền ngộ đạo và sau đó phát tâm xuất gia. Trong suốt 8 tháng trời, ngài chỉ làm một việc giã gạo, nấu cơm; ấy thế mà ngài được truyền y bát, làm vị Tổ thứ sáu Thiền tông Trung Hoa. Sau này, ngài đã báo trước ngày giờ ra đi trước 3 tháng và để lại nhục thân không bị hoại cho đến ngày hôm nay.

Còn Châu Lợi Bàn Đặc mặc dù đã hết sức cố gắng học hỏi, nhưng vẫn không thuộc một bài kệ 4 câu? Được người anh khuyên hoàn tục, ngài buồn vô hạn vì luôn mơ ước được sống phạm hạnh trong vòng tay che chở của đức Thế tôn. Đang suy nghĩ miên man trước dòng đời nghiệt ngã, nửa muốn ở lại tu tập, nửa muốn trở về thế tục. Cuối cùng, thầy đành chấp nhận hoàn tục. Ngài vừa đi vừa buồn, sực nhớ vì mình chưa từ giã đức bổn sư nên Châu Lợi Bàn Đặc quay trở lại, đến Thiền thất đức Phật cung kính thưa về. Phật hỏi, “này đệ tử, có chuyện gì không tốt đến với con?” “Dạ! Kính bạch đức Thế tôn, không biết trước kia con gieo nhân gì mà hiện tại con hết sức cố gắng để học một bài kệ 4 câu, đến nay đã hơn 6 tháng mà con vẫn không thuộc. Con học trước quên sau, học sau quên trước, nên anh con nói thôi đừng tu nữa, hãy về nhà đi, làm nhiệm vụ của một cư sĩ tại gia hộ trì Tam bảo sẽ tốt hơn”.

Phật biết được nhân duyên của người đệ tử, vẫn muốn tiếp tục đời sống xuất gia thoát tục, vì bất đắc dĩ mà phải chịu nghe lời anh, nên Ngài an ủi, động viên một cách khéo léo. “này đệ tử, không thuộc một bài kệ 4 câu không phải là lỗi lầm đáng tiếc để con hoàn tục ra đời. Do túc duyên đời trước của con chưa được khai phát, chỉ cần con thiết tha thành tâm sám hối, phát nguyện được trí tuệ rộng lớn và chia sẻ cùng với tất cả mọi người thì sau này con sẽ được toại nguyện”. Nói xong, đức Phật đưa cho ngài Châu Lợi Bàn Đặc chiếc khăn trắng và căn dặn kỹ càng, “mỗi ngày con chỉ cần quan sát chiếc khăn này, cố gắng theo dõi sự chuyển biến của nó ra sao, con chỉ làm một việc đó thôi, đây là pháp yếu tu hành đặc biệt cho hạng người như con”. Lời nói của Đức Phật như được rót mật vào lòng, làm cho tâm của Châu Lợi Bàn Đặc cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng, trào dâng lên niềm vui vô hạn.

Đây là một đề mục Thiền quán, đòi hỏi Thiền sinh cần phải chú tâm cao độ, không dùng nhận thức để phân biệt so sánh mà chỉ nhìn một cách tường tận sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó, không thêm một niệm thứ hai vào. Như hai con mắt người thợ mộc, muốn ngắm cho chính xác khúc gỗ thì phải nhắm bớt lại một con. Tu tập cũng thế, nếu chúng ta cứ để tâm mình muốn chạy đi đâu thì chạy, như khỉ leo cây, như vượn chuyền cành, tu học như vậy biết đến bao giờ mới được thành tựu đạo quả. Dưới sự hướng dẫn, chỉ dạy sâu sắc của đức Thế tôn, ngài Châu Lợi Bàn Đặc đã nhận thức rõ ràng lợi ích của sự chú tâm miên mật đúng pháp. Rồi thời gian trôi qua, chiếc khăn từ màu trắng chuyển sang màu ngà, nhờ vậy Châu Lợi Bàn Đặc thấy rõ sự vô thường của vạn vật, chiếc khăn lúc này không còn mới như xưa nữa. Con người cũng vậy, khi được sinh ra và lớn lên, rồi già-bệnh-chết giống hệt như chiếc khăn hiện giờ. Nhờ quán chiếu tinh cần như thế mà cuối cùng Châu Lợi Bàn Đặc đã chứng quả A La Hán với chiếc khăn nhiệm mầu.

Chúng ta tu theo Phật, khi nghe câu chuyện trên đừng để tình trạng trí tuệ lộn ngược chi phối thì uổng cả đời tu. Muốn vậy, ta cần phải nương tựa thầy lành bạn tốt, cố gắng tinh cần quán chiếu lời dạy của Ngài; nếu không việc tu học của chúng ta sẽ bị rơi vào trí tuệ lộn ngược thì uổng công vô ích, như nước đổ lá môn, như nước xao đầu vịt, đổ vô bao nhiêu cũng bị trôi đi hết.

+ Trí tuệ bắp vế: Chúng ta đến chùa nghe Pháp đều ghi nhớ rõ ràng từng câu, từng chữ, nhưng khi đứng dậy ra về đều quên hết. Người học đạo như thế gọi là trí tuệ bắp vế, vì khi nghe quí thầy hướng dẫn thì nhớ, lúc về thì quên, giống như người ăn bánh kẹo để trên bắp vế, khi đứng dậy rớt hết. Đây là hạng người nếu được đến chùa học hỏi, tu tập, cảm thấy an lạc và hạnh phúc, chẳng khác nào người đang lạnh gặp được áo ấm; nhưng khi trở về nhà thì mọi thứ đâu vào đấy, phiền muộn, khổ đau, bực bội cứ tiếp tục phát sinh. Học đạo như vậy uổng công vô ích, người tu như thế cần phải biết hổ thẹn, sám hối, gắng sức ra công học hỏi, thường xuyên quán chiếu, suy tư không một phút giây lơ là, biết cách sắp xếp công việc cho hợp lý, làm việc nào biết việc đó.

Khi đến chùa nghe pháp, chúng ta cố gắng học hiểu rõ ràng nghĩa lý lời Phật dạy, để rồi sau khi ra về nhớ đó mà ứng dụng, thực hành. Nghe học như thế thật sự mới có lợi ích thiết thực và xứng đáng là người Phật tử. Nếu đã đến chùa khi nghe thì hiểu, khi về thì quên, nên đụng chuyện phát sinh đủ thứ phiền não, làm cho mọi người mất niềm tin và không còn muốn tu học nữa. Tu học như thế vô tình phỉ báng Phật pháp; cho nên, chúng ta phải cố gắng tu học trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa u mê, tối tăm thành trong sáng, thanh tịnh, chuyển hóa khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Tu học như vậy mới xứng đáng là người con Phật.

+ Trí tuệ rộng lớn: Đây là loại trí tuệ do siêng năng rèn luyện, quán chiếu, tu tập, không phải do học hỏi, hiểu biết mà được nên nói là trí tuệ rộng lớn. Trí tuệ rộng lớn là trí tuệ thấy biết đúng như thật, tuy sống giữa dòng đời ô nhiễm mà không bị tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ kỹ chi phối; luôn sống vì mọi người, phục vụ chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán; sống vì tha nhân chứ không vì lợi ích riêng tư, lấy niềm vui nhân loại làm niềm vui chính mình. Muốn được như vậy, chúng ta phải phát nguyện đời đời kiếp kiếp đi theo con đường Phật đạo vì lợi ích chúng sinh, thấy ai cũng là người thân, người thương của mình nên dễ dàng cảm thông và tha thứ, bao dung và độ lượng, thương yêu và hiểu biết, sẵn sàng đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha.

Tổ Bát Nhã Đa La được nhà vua tặng cho hạt châu, một hôm ngài gọi ba vị hoàng tử con vua lại hỏi rằng, “hạt châu này vô giá nhất trên đời, vậy có thứ gì quý hơn không?” Hai vị hoàng tử lớn đều đồng ý với nhau, “hạt châu này quý nhất không gì có thể sánh bằng!” Ngược lại, hoàng tử út không chịu, nên nói “kính bạch thầy! có một thứ quý hơn hạt châu này nhiều, đó là trí tuệ!” “Con làm sao chứng minh được điều đó?” “Thưa thầy, hạt châu này tuy quý giá nhưng nó là vật vô tri, nó không tự biết tốt hay xấu, quý hay tiện, mà phải nhờ trí tuệ của con người xem xét, nhận định, nên nó mới trở thành hạt châu vô giá, bằng không thì nó chỉ giá trị như viên đá, hòn sỏi, không hơn không khác”.  Tổ liền thọ ký, “ngươi về sau sẽ làm lợi ích cho nhiều người”. Sau này, hoàng tử xuất gia, trở thành vị tổ thứ hai mươi tám của Ấn Độ, tên Bồ Đề Đạt Ma. Ngày nay, chúng ta biết tu Thiền là nhờ công giáo hóa rộng khắp của ngài.

Thế nhân lúc nào cũng quý trọng tài sản, vật thực nên phân chia ra có quý, có tiện, có tốt, có xấu. Tài sản là vật vô tri phụ thuộc vào con người nhưng chúng sinh vì không hiểu biết nên tìm cách gom chứa về mình, do đó sanh ra cướp bóc, giết hại lẫn nhau, gây ra phiền muộn, khổ đau cho nhân loại rồi rơi vào tối tăm, si mê, mờ mịt. Riêng người con Phật lấy trí tuệ làm nền tảng, chính nhờ có trí tuệ nên chúng ta thấu rõ bản chất vạn vật là vô thường, tạm bợ, huyễn hóa, không thật nên bớt si mê, chấp ngã. Nhờ vậy, cuộc sống ngày càng thêm thăng tiến, giảm bớt tham lam, sân giận, si mê, chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Thế gian ai cũng ước muốn được thọ hưởng đầy đủ các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống như tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn ngon, mặc ấm, ngủ kỹ nên dễ dàng làm hại lẫn nhau bất chấp luân thường đạo lý.

Để đáp ứng nhu cầu của con người, một vị thần hiện ra nhờ người nông dân truyền trao lại cho nhà vua 4 viên ngọc quý. Người nông dân thật thà, tốt bụng cầm 4 viên ngọc hăng hái lên đường trao lại cho nhà vua. Trước tấm lòng chân thật của người nông dân, nhà vua cảm động nên thương tình cho phép anh chọn lấy một viên ngọc. Trước một sự thật không thể ngờ làm bác nông dân không khỏi lúng túng, nhưng giá trị của viên ngọc chỉ cho được một công dụng nhất định. Bác nông dân xin phép nhà vua để chờ bàn lại với gia đình nên lấy viên ngọc nào cho phù hợp. Về nhà, ông trình bày công dụng và giá trị của mỗi viên ngọc để gia đình tùy nghi chọn lựa.

Viên ngọc thứ nhất sẽ đem lại cho chủ nhân những thức ăn ngon lành theo ý muốn, dù trên đời này có một thợ nấu tài ba, lỗi lạc cách mấy cũng không bằng. Viên ngọc thứ hai sẽ đem lại cho chủ nhân tất cả trang sức, quần áo, lụa là, gấm vóc sang trọng nhất. Viên ngọc thứ ba sẽ đem lại cho chủ nhân các loại vũ khí tối tân, hiện đại nhất để các chàng trai đủ khả năng thành người hùng và dễ dàng thu phục thiên hạ. Viên ngọc thứ tư sẽ đem lại cho chủ nhân muốn cần bao nhiêu tiền bạc, của cải, vật chất cũng có, không cần phải đổ mồ hôi, tốn công sức và làm lụng vất vả vẫn có được. Bà vợ là người lên tiếng đầu tiên khuyên chọn viên ngọc thứ nhất để được muốn ăn gì có đó, thế gian này ăn no, ngủ kỹ là sung sướng và khoái lạc nhất trên đời. Đám con trai không chịu, chúng đòi chọn viên ngọc phò vua, giúp nước, bình thiên hạ, lập chiến công hiển hách để được lưu danh vào sách sử muôn đời. Phía con gái cũng không vừa, chúng nhao nhao phản đối, “đâu được như thế! Thắng người thì sinh ra oán hận, ăn nhiều thì sinh lười biếng, thà nhịn ăn mà trang sức lộng lẫy, thơm tho, vậy không khoái hay sao?” Thế là ba phe muốn bảo thủ ý kiến của mình làm bác nông dân càng thêm rối rắm. Cả nhà cùng nhau tranh cãi loạn xạ, chẳng bên nào chịu nhân nhượng và từ đó cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu xảy ra, ai cũng cho ý kiến của mình là đúng nên không ai chịu nhường cho ai. Cuối cùng, hơn một tuần lễ trôi qua, mọi việc trong nhà đều bị đình trệ vì chẳng ai muốn làm gì cả.

Sớm hơn ngày hẹn, bác nông dân đã có mặt trước bệ rồng. Vua ngạc nhiên hỏi, “gia đình khanh đã chọn được viên ngọc nào?” “Muôn tâu bệ hạ, xin cho phép gia đình con không nhận viên ngọc nào hết?” “Ủa, tại sao lạ vậy?” Đức vua ngạc nhiên! Bác nông dân liền kể lại sự việc, “trên đời này không gì quý bằng an vui và hạnh phúc. Vàng bạc, gấm vóc, lụa là, thức ăn sơn hào hải vị, vũ khí tối tân chỉ làm con người tăng trưởng thêm lòng tham lam, ích kỷ, sân si nóng giận và giết hại lẫn nhau. Gia đình con là một bằng chứng thiết thực, hơn mười ngày qua chúng con đang sống trong địa ngục hiện tiền”. Càng mưu cầu, tham đắm riêng tư càng nhiều thì càng thêm khổ đau chồng chất, chỉ cần muốn ít biết đủ theo khả năng hiện tại dù nghèo khó vẫn an vui, hạnh phúc. Trớ trêu thay, thế gian này không biết bao nhà tỉ phú đã phải bỏ mạng sa trường vì hụt hẫng bên bờ hạnh phúc, họ cứ mải mê chạy theo trường đời danh lợi, quyền cao chức trọng, để rồi phải ra đi trong tủi hận, ưu phiền. Chúng ta cứ bám víu, dính mắc vào nhu cầu vật chất quá nhiều nên quanh năm suốt tháng luôn bị nó trói buộc. Các nhà tỉ phú đâu có thiếu thốn, nghèo khó, tại sao họ vẫn phải tự tử? Hạnh phúc nhất của con người là từ nội tâm trong sáng, thanh tịnh. Sống giữa cõi đời nhiều ô nhiễm đầy dẫy tham lam, thù hận, si mê mà chúng ta không bị dòng đời cuốn trôi và nhấn chìm, vẫn làm việc phục vụ chúng sinh vô điều kiện mà không dính mắc, đắm nhiễm thì đó mới là người có trí tuệ rộng lớn.

Đôi lời tâm sự chân thành xin được bộc bạch cùng các chư huynh đệ pháp lữ gần xa. Chúng tôi xin nguyện được kết duyên sâu cùng với tất cả mọi người.

Thích Đạt Ma Phổ Giác                                                                                                    

KHÔNG CÓ GÌ LÀ CỐ ĐỊNH        

Nói đến đạo Phật là nói đến tinh thần nhân quả, nói đến sự giác ngộ của một con người. Con người sinh ra đủ phước báo hay bất hạnh là do tích lũy nghiệp từ nhiều đời mà hiện tại cho ra kết quả khác nhau. Mọi việc đều có thể thay đổi và cải thiện tốt hơn nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm cao độ. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này là một dòng chuyển biến liên tục từng phút giây, không có gì là cố định cả.

Một hôm, đức Phật đang chuẩn bị buổi tham vấn đạo lý cho tất cả quan quân thành Xá Vệ tại tịnh xá Kỳ Viên, vua Ba Tư Nặc cùng đoàn tùy tùng sau khi đảnh lễ đức Thế tôn bèn ngồi sang một bên và thưa hỏi:

_ Thế nào, Thế Tôn! Tất cả Bà La Môn sau khi chết sanh trở lại làm Bà La Môn chăng? Giai cấp Sát Đế Lợi, Tỳ Xá, Thủ  Đà La cũng lại như thế chăng?

_ Này đại vương, đâu được như vậy! Trên đời có 4 hạng người: Hạng người từ tối vào tối; Hạng người từ tối vào sáng; Hạng người từ sáng vào tối; Hạng người từ sáng vào sáng.

_ Thưa đại vương, thế nào là hạng người từ tối vào tối? Ở đây có một số người được sanh ra trong gia đình hạ tiện, thấp kém, ở đợ, làm mướn, gia đình Chiên đà la, làm nghề đồ tể, lưới cá, giăng bẫy, đổ rác, đương lát và làm các nghề nghiệp thấp kém khác. Cơm không đủ no, áo không đủ mặc, ăn uống thiếu thốn, nghèo cùng, bệnh tật chết yểu, thân thể xấu xí, luôn làm các việc hạ tiện và cũng bị người sai làm các việc hạ tiện, ấy gọi là tối. Trong chỗ tối đó người ấy thân hay làm việc ác, miệng nói ác, ý suy nghĩ ác, do nhân đó sau khi chết người ấy sanh vào cõi dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chịu nhiều khổ báo; giống như người từ tối vào tối, luôn sống trong tối tăm, hắc ám, vô minh, mê muội, đời này làm ác, đời sau làm ác, không biết lối đi; người từ tối vào tối cũng lại như thế.

_ Đại vương! Thế nào là người từ tối vào sáng? Như đã nói ở trên, tuy đang ở trong chỗ tối nhưng người này ý luôn suy nghĩ điều tốt lành, miệng nói lời lành, thân hay làm việc tốt, luôn tôn kính người tu hành chân chánh, biết giúp đỡ, chia sẻ khi gặp người hoạn nạn. Do nhân ấy sau khi chết được tái sanh vào các cõi trời, hoặc trở lại làm người cao sang, quyền quý; giống như có người từ đất bước lên kiệu, từ kiệu bước lên ngựa, từ ngựa lên voi hay từ voi lên lầu; người từ tối vào sáng cũng lại như thế.

_ Thế nào là người từ sáng vào tối? Ở đây có người sanh ra trong nhà cao quý, có địa vị, danh vọng trong xã hội, gia đình Bà La Môn giàu có, gia đình Sát Đế Lợi giàu có, nhiều tiền của, nhiều tôi tớ, thân tướng tốt đẹp, trang nghiêm, thông minh, trí tuệ, ấy gọi là sáng. Nhưng hiện tại người ấy thân hay làm các việc ác, miệng nói lời ác, ý suy nghĩ ác, hại người hại vật, do nhân duyên đó sau khi chết bị đọa vào ba đường dữ chịu nhiều khổ báo; giống như có người từ lầu cao bước xuống voi, từ voi bước xuống ngựa, từ ngựa bước xuống kiệu, từ kiệu bước xuống đất, từ đất rơi xuống hầm và lọt xuống hố sâu; người từ sáng vào tối cũng lại như thế.

_ Thế nào là người từ sáng vào sáng? Có những người sanh ra trong gia đình giàu sang, cao quý, có địa vị và danh vọng cao trong xã hội, có nhiều tiền của, nhiều kiến thức, sống vương giả, nhiều tôi tớ, muốn gì được nấy. Hiện tại ý luôn suy nghĩ tốt lành, miệng nói lời lành, thân hay làm những việc phước đức và hay khuyên nhủ mọi người cùng làm theo. Người như vậy sau khi chết do nhân tốt lành đó nên được sanh lên các cõi trời để hưởng phước báu thù thắng; giống như người từ đất đi thẳng lên các lầu cao và thoải mái dạo chơi trên ấy; người từ sáng vào sáng cũng lại như thế.

Phật nói kinh này xong, vua và các quan được nghe điều chưa từng nghe và biết được điều chưa từng biết, bao nhiêu thấy biết sai lầm từ xưa đến nay đều được sáng tỏ hết.

Theo lịch sử Ấn Độ cổ xưa, người Ba Tư cổ đại nay là Iran thuộc giống dân da trắng xâm lăng toàn thắng dân gốc Ấn Độ da đen. Để nắm quyền cai trị phân biệt chủng tộc giai cấp, một số người có quyền thế chế tác ra luật Manu, cho rằng trời Phạm thiên sanh ra vạn vật. Theo tập cấp phong kiến cổ xưa, ai sanh ra thuộc giai cấp nào thì trước sau phải chịu như vậy, không thể nào thay đổi được, giống như tổ chức của loài ong, loài kiến. Các giai cấp này được sắp đặt và hình thành theo hệ thống pháp lý hẳn hòi, dựa theo truyền thống xa xưa có một đấng tối cao ban phước giáng họa trên thế gian này.

Vậy phong kiến là gì? Phong kiến là phong chức, cấp đất và phong kiến còn mang ẩn nghĩa là một tổ chức được sắp đặt theo loài ong, loài kiến. Trong tổ của loài ong cấp nào việc đó, ong thợ chỉ một việc xây tổ, ong nước chuyên đi lấy nước, ong mật chuyên đi hút mật, ong thầy thuốc chuyên lo pha chế mật hợp với từng loài, ong bảo vệ có trách nhiệm giám sát tuần tiểu cẩn thận, ong đực lo truyền giống, ong cái lo đẻ trứng. Chỉ một con ong cái nhưng có cả hàng trăm con ong đực nên ong cái được tôn vinh là ong chúa. Ong chúa được ăn một loại thức ăn đặc biệt gọi là mật ong chúa. Khi ong chúa đến chỗ mật để ăn thì tất cả ong dân đều quỳ mọp tỏ vẻ cung kính, khép nép và sợ sệt. Một con ong chúa có khả năng sinh hàng trăm ngàn con ong con. Trong tổ thiếu ong gì thì ong thầy thuốc chế thức ăn để ong chúa ăn và đẻ ra thứ ong đó; như tổ thiếu ong hút mật thì ong chúa đẻ nhiều ong hút mật. Đặc biệt là đẻ ong chúa con, lâu lắm mới đẻ một lần, mỗi lần chỉ ba trứng; nhưng thật dã man thay, ong chúa mẹ biết được giờ ong chúa con nở nên đã đến nằm chờ sẵn, trứng thứ nhất vừa nở ra, ong chúa mẹ liền cắn chết ong chúa con; kế đến, ong chúa con thứ hai tiếp tục được sinh ra và vẫn bình yên vô sự. Đây là điều kỳ lạ của loài ong, nhưng chị ong chúa con thứ hai này lại nằm chờ sẵn, đợi đến cô em ong chúa thứ ba vừa chào đời liền cắn chết. Dã man thay, gia đình loài ong là như thế.

Tuy nhiên, con người khôn hơn nên lợi dụng quyền thế sắp đặt chẳng khác nào loài ong dưới danh nghĩa một đấng tối cao có quyền ban phước, giáng họa để áp đặt và cai trị. Con người ngày xưa với thiên hình vạn trạng, so với bầu vũ trụ bao la này thật là nhỏ bé nên không đủ sáng suốt biết rõ sự thật trước những hiện tượng như sấm sét, sóng thần, động đất, hỏa hoạn, lũ lụt, dịch bệnh đã cướp đi nhiều sinh mạng của con người. Không ai tìm ra được nguyên nhân nên đành chấp nhận xuôi tay phó mặc cho số phận thượng đế đã an bài. Ngày xưa, người có quyền hành thế lực lợi dụng con người thiếu hiểu biết nên đã đặt ra đấng quyền năng và tự xưng mình là Thiên tử, tức con trời, được đấng tối cao sai xuống trần gian để trị vì thiên hạ. Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học, con người ngày càng văn minh hơn nên đã phát hiện mọi hiện tượng sự vật trên thế gian đều do nhiều nguyên nhân hợp lại, không có cái gì do một nhân mà hình thành. Chính khoa học đã làm sáng tỏ học thuyết nhân quả nhà Phật, “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”, không có gì là cố định cả, không ai có quyền ban phước giáng họa; giả sử nếu có thượng đế thì chỉ là thượng đế tối cao của chính mình, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Nếu thượng đế có khả năng ban phước giáng họa thì tại sao không ban phước lành hết cho tất cả chúng sanh để cùng nhau chung hưởng cảnh thái bình? Cho nên, vua Ba Tư Nặc hỏi Phật như vậy có đúng không. Phật liền trả lời, “đại vương nên biết có 4 hạng người: Có người từ tối vào tối, có người từ tối vào sáng, có người từ sáng vào tối, có người từ sáng vào sáng. Đây là bài kinh nhân quả Phật đã chỉ chúng ta một cách rõ ràng và thiết thực, mọi việc đều có thể thay đổi được tùy theo khả năng tu tập của mỗi người.

Hạng người thứ nhất là hạng người kém phước đức do không biết làm các việc thiện lành tốt đẹp, lại không gặp được thầy hiền bạn tốt nên suốt đời sống trong đau khổ lầm mê. Do đời trước làm các việc bất thiện hại người, hại vật nên đời này sanh chỗ xấu ác, lại không được học hỏi, trau dồi kiến thức, không biết nhận định đúng sai nên đành chấp nhận cuộc đời giống như bèo dạt mây trôi, sống trong phiền muộn, khổ đau, cuối cùng rơi vào chỗ tối tăm, mờ mịt, lại tiếp tục gây tạo nghiệp nhân xấu ác, do đó đành phải chịu mãi mãi ở chỗ tối tăm. Hạng người này đáng thương hơn đáng trách, vì họ không đủ phước duyên thân cận thầy lành bạn tốt nên chúng ta cần phải quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để kết duyên lành với họ, làm sao để gần gũi họ mà có cơ hội sẻ chia từ vật chất đến phương tiện tinh thần, hướng dẫn cho họ biết tin sâu nhân quả để khắc phục bớt việc làm có hại cho người và vật.

Hạng người thứ hai là hạng người biết cầu tiến, tuy trong hoàn cảnh xấu ác nhưng họ may mắn gặp được thiện hữu tri thức hướng dẫn, chỉ dạy nên nhận ra sai lầm quá khứ do mình tạo ra. Họ cố gắng siêng năng tinh cần, chịu đựng, quyết tâm khắc phục, làm mới lại chính mình bằng cách sám hối hứa chừa bỏ nghiệp nhân xấu ác và tùy theo khả năng, hoàn cảnh cuộc sống để làm việc phước thiện nên chuyển được quả xấu thành nhân tốt lành, do đó họ được từ tối vào sáng.

Hạng người thứ ba tuy có phước trong hiện tại nhưng vì nhận định sai lầm theo quan điểm cố định mà đời này mặc tình gây tạo tội lỗi, đến khi phước hết họa đến đành chấp nhận chịu quả khổ đau như người từ sáng vào tối.

Hạng người thứ tư là hạng người luôn tỏa sáng khắp mọi nơi vì đã tin sâu Tam bảo, tin sâu nhân quả, hiểu được giá trị của cuộc sống nên lúc nào cũng làm lợi cho chúng sinh, luôn chia sẻ phúc lộc bình an đến với mọi người trên tinh thần vô ngã, vị tha.

Người bần cùng khốn khổ hay nóng giận, oán thù, si tưởng tà vạy, si mê không cung kính người tu hành chân chánh, chê bai không khen ngợi nên quả xấu đến liền liền; người như thế khổ đau suốt kiếp trong giam cầm, như tối vào nơi tối. Nếu có người bần cùng mà tín tâm ít nóng giận, thường sanh tâm hổ thẹn, bố thí lìa xan tham, thấy người tu chân chánh liền thấp mình thưa hỏi, tùy khả năng giúp đỡ, khuyên người hay bố thí, vui theo việc làm tốt; người tu phước như thế thì đời này đến đời sau luôn sanh vào cõi lành, như tối vào nơi sáng. Người hiện tại giàu có nhưng tà kiến nhiều, hay nóng giận, tưởng mãi sẽ giàu sang, si mê không cung kính người tu hành chân chánh, thường chê bai hủy báng người bố thí ngu dại, ngăn cản người làm thiện; con người ác như thế từ đây đến đời sau sanh vào địa ngục khổ, như từ sáng vào tối. Nếu có người giàu có mà tín tâm không nóng giận, thường khởi tâm hổ thẹn, tôn kính người giới đức, cúng dường cùng san sẻ, thăm hỏi người đáng kính, cúng dường vô điều kiện, khuyên người hay giúp đỡ, khen ngợi người làm phước; người tốt sống như thế từ đây đến mai sau hưởng phước vô cùng tận, như sáng càng tỏa sáng. Cuối cùng, Phật tóm tắt bằng bài kệ 4 hạng người tùy theo khả năng tạo nghiệp tốt xấu mà cho ra kết quả khác nhau, không phải cái gì cũng cố định cả.

Theo truyền thống cổ xưa, phong tục tập quán của người Ấn Độ luôn quan niệm con người và vạn vật do đấng Phạm Thiên sanh ra, ai như thế nào thì trước sau phải chịu như vậy. Điều này cũng giống như tổ chức của loài ong, chỉ có ong chúa mới định đoạt tất cả, mạng sống tất cả loài ong đều do ong chúa sắp đặt, không có ong dân nào có quyền làm khác. Con người có phước hơn các loài vật nhờ sự học hỏi, tư duy, suy xét, quán chiếu. Loài vật chỉ sống theo bản năng do sự tạo nghiệp nhân nào quả nấy nên chịu quả cố định, hay còn gọi là định nghiệp, nghiệp không thể thay đổi. Con người nhờ có óc suy xét, sáng tạo, ý chí, nghị lực mạnh mẽ, biết nhận định đúng sai nên có khả năng thay đổi vận mệnh, chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ, gọi là bất định nghiệp, nghiệp có thể thay đổi được.

Như bản thân chúng tôi chẳng hạn, trước kia do si mê lầm chấp với quan niệm chết là hết, không có nhân quả nghiệp báo, không có tội phước, nên hơn nửa đời người tôi đã gây tạo không biết bao nhiêu tội lỗi dù đó là cha mẹ hay người thân. Tôi đam mê cờ bạc, rượu chè, hút sách, đàn điếm, sống tán tận lương tâm để hưởng thụ cho riêng mình. Nếu nói cái gì cũng cố định cả thì giờ đây tôi đã rũ xương trong lao tù, nghiện ngập. Phật pháp đã cứu đời tôi, giúp tôi vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Bản thân chúng tôi là một bằng chứng thiết thực. Nếu con người không có niềm tin vững chắc về chính mình thì khó làm mới lại cuộc đời mà đành cam chịu số phận đã an bài, người như thế sẽ mãi mãi sống trong đau khổ lầm mê.

Đây là bài kinh Phật giải thích cho vua Ba Tư Nặc hiểu rõ về tiến trình diễn biến của nhân quả. Nhân quả luôn biến chuyển, thay đổi không ngừng theo thời gian tùy theo khả năng tu tập của mọi người. Vậy mà có một số đông người trên thế gian này lầm chấp cho rằng người chết sanh người, trời chết sanh trời, thú vật chết sanh thú vật và nhiều quan niệm khác. Họ cho rằng trời sanh ra vạn vật để phục vụ con người và cúng tế thần linh. Con người ai sanh ra trong giai cấp nào thì phải chịu số phận của giai cấp đó, cụ thể như thời Phật còn tại thế và cho đến ngày nay vẫn còn như vậy. Xã hội Ấn Độ hiện nay vẫn phân chia làm 4 giai cấp: 1. Giai cấp Bà La Môn giáo nay là Ấn giáo; 2. Giai cấp Sát Đế Lợi; 3. Giai cấp Tỳ Xá; 4. Giai cấp Thủ Đà La.

Ngoài ra còn có hạng người không được xúc chạm gọi là Chiên Đà La, hạng người này không được học hành, không có các quyền lợi về văn hóa, kinh tế, nhu cầu sống, bị mọi người xa lánh, coi thường, khinh rẻ, không gia đình, không nhà cửa, không thân bằng quyến thuộc, bệnh tật, thất nghiệp, bị xã hội ruồng bỏ, sống lang thang vất vưỡng, thiếu thốn khó khăn và đói rét.

Bà La Môn giáo thuộc quyền giai cấp giáo sĩ chuyên lo nghi lễ cúng tế, cầu nguyện, hướng dẫn tu tập phạm hạnh, chuyên làm văn hóa, chế tác luật lệ. Giai cấp này thường tự hào họ được sanh ra từ miệng đấng Phạm Thiên. Miệng dùng để ăn uống, nói năng, giao thiệp, thuyết pháp, hướng dẫn, chỉ dạy cho tất cả mọi người nên giai cấp này được ăn trên ngồi trước, từ vua quan đến thứ dân đều phải tôn sùng, kính trọng.

Sát Đế Lợi là giai cấp vua quan nắm quyền sinh sát trong tay, muốn giết ai thì giết, còn gọi là giai cấp chiến sĩ, võ tướng quý tộc. Họ nắm quyền cai trị, điều hành xã hội, coi đất nước giống như lãnh thổ riêng của mình. Giai cấp này tự hào mình được sanh ra từ hai vai của đấng Phạm Thiên. Thân thể gồm có đầu mình và tứ chi, đôi vai luôn gánh vác hết cơ thể. Họ nghĩ mình là Thiên tử, tức con trời được sai xuống nhân gian để trị vì thiên hạ nên muốn làm gì thì làm, không ai có quyền ngăn cản.

Tỳ Xá là giai cấp thợ thuyền buôn bán làm ăn, có nhiệm vụ cung cấp nhu cầu cần thiết cho cả nước về phương tiện sinh sống, đảm bảo an sinh cho hai giai cấp trên. Họ tự hào được sinh ra từ bụng Phạm Thiên. Bụng là một chi phần tiêu thụ và dung chứa thức ăn để nuôi cơ thể, vì được sinh ra từ bụng nên họ phải có nhiệm vụ đáp ứng chu toàn đời sống no đủ cho giai cấp nắm quyền.

Thủ Đà La là giai cấp nô lệ phục dịch vô điều kiện, sống rất cực khổ và bần cùng. Họ được mệnh danh sinh ra từ hai bàn chân của đấng Phạm Thiên. Hai bàn chân trong cơ thể con người phải chịu hết toàn thân, bao nhiêu nặng nhọc hai bàn chân phải chấp nhận gồng gánh hết. Họ làm lụng vất vả, nhọc nhằn nhưng cơm không đủ no, áo không đủ mặc, lại bị đánh đập một cách vô tội vạ.

Ngày nay, nếu ai có dịp sang Ấn Độ sẽ thấy rõ những gì Phật nói cách nay mấy ngàn năm đến giờ vẫn tồn tại, thậm chí còn chia chẻ tỉ mỉ hơn hệ thống phân biệt khi xưa. Các giai cấp này theo học thuyết cha truyền con nối, không được chung đụng lẫn nhau. Người thuộc hai giai cấp dưới có nhiệm vụ phục tùng hai giai cấp trên vô điều kiện nên cuộc sống của họ lúc nào cũng nhọc nhằn, khổ sở, nghèo hèn, thiếu thốn, khó khăn đủ thứ. Đây là quan niệm khi xưa của thể chế phong kiến còn ảnh hưởng đến ngày nay. Họ thống trị con người như cách sống của loài ong, loài kiến. Vì thế, vua Ba Tư Nặc mới thắc mắc hỏi học thuyết này có đúng chăng và có còn phù hợp với con người hay không. Nếu người giàu sẽ giàu mãi, người nghèo sẽ nghèo hoài và tệ hại hơn súc sinh sẽ mãi là súc sinh. Nói như thế có đúng không? Thực tế trên đời này thường cho ta thấy, có người thuở nhỏ bần cùng nghèo khó nhưng khi lớn lên do siêng năng chăm chỉ, tinh cần tích cực làm việc, biết tiết kiệm và đáp ứng đúng nhu cầu sống của xã hội nên hiện tại trở thành giàu có. Ngược lại, có người đang giàu nhưng do phung phí trác táng ăn chơi, hoặc công việc làm ăn bị thua lỗ, cuối cùng tán gia bại sản trở thành nghèo khổ. Vậy giàu nghèo đâu nhất định thì làm gì có giai cấp cố định như quan niệm khi xưa. Nếu nói tất cả đều do số mệnh đã định sẵn thì quá bất công và vô lý.

Vì nghĩ tất cả do sự sắp đặt của đấng tối cao nên con người giết hại, trộm cướp, tà dâm, giả dối, sân hận, phỉ báng thô lỗ, khao khát, thèm thuồng, hiểm độc và hiểu biết sai lầm, nếu lỡ làm việc xấu thì đổ thừa số mệnh tôi là thế nên không biết hổ thẹn, sám hối làm lại cuộc đời. Người nghèo dù có cố gắng làm việc thì vẫn nghèo vì số phận đã an bài. Thật sự, nghèo là do không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ khi gặp người hoạn nạn; hoặc do nhân trộm cướp, lường gạt của người khác nên đời nay phải nghèo khổ. Đạo Phật không chấp nhận cái gì cũng đổ thừa cho số phận nên cuối cùng cuộc sống như bèo dạt mây trôi. Trong khi đó, mọi người có khả năng làm được tất cả, nếu có ý chí và quyết tâm cao thì không gì không thể làm được. Họ không biết rằng, cuộc sống của chúng ta là một chuỗi dài nhân duyên, mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này đều nương nhờ lẫn nhau, không có một sự vật nào tách rời nhau mà bảo tồn sự sống. Nó là một dòng chuyển biến liên tục trong từng phút giây. Con người từ khi mở mắt chào đời đã chịu sự chi phối của nghiệp nhân quá khứ rồi dần dần lớn khôn, huân tập những thói quen mới. Nếu sống gần gũi và học hỏi, bắt chước người có nhân cách đạo đức, luôn làm những điều thánh thiện giúp ích cho nhân loại thì phẩm chất người đó trở nên tốt đẹp, cao quý, có thể làm lợi ích cho nhiều người. Trái lại, nếu sống gần gũi người xấu ác, bị nghiệp ác chi phối, lâu ngày sẽ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, phẩm chất và nhân cách người này trở nên thấp kém, luôn làm khổ mình, khổ người. Như thế, cuộc sống của chúng ta đâu có gì là cố định, nó sẽ chuyển biến, đổi thay tùy theo hành động của mỗi người nếu biết tu thân, tu giới, tu tâm niệm rộng lớn.

Thế giới hiện tại chiến tranh hỗn loạn, con người độc ác với nhau, bệnh tật, nghèo đói, thiếu thốn, khó khăn, chết chóc, hoạn nạn, chẳng lẽ ông trời lại tạo ra như thế? Chúng ta chấp nhận cuộc sống không có nhân quả nghiệp báo rồi đành phó thác đời mình cho số phận, chẳng cần phấn đấu vươn lên làm lại cuộc đời trong khi con người có khả năng suy xét, nhận định, phát minh, tư duy sáng tạo, làm được nhiều việc không thể nghĩ bàn. Làm gì có ai sắp đặt số phận của chúng ta, nếu có thượng đế thì chỉ là thượng đế của chính mình, mình làm tốt được hưởng phước báo, mình làm ác phải chịu quả khổ đau.

THAY ĐỔI VẬN MỆNH

Mẹ tôi mỗi khi sinh con đều ghi lại rõ ràng ngày, giờ, tháng đẻ, năm sinh của từng đứa một và nhờ tướng số sủ quẻ cho từng người. Tám anh em chúng tôi chỉ có hai người là quẻ tốt, tôi và thầy Nhật Từ. Tôi thuộc hạng người thông minh và ma mãnh nên từ bé đã bon chen vào đời rất sớm. Trong quẻ nói tôi sau này sẽ làm vua hoặc quan lớn trong hai chế độ. Quẻ nói về thầy Nhật Từ rất chính xác, việc học sẽ thành đạt như ý muốn, có học vị cao, đỗ bằng tiến sĩ, có đất đai, quyền thế và là người nổi tiếng trên thế giới. Tuy nhiên, vì thầy Nhật Từ để lộ tài năng quá sớm nên có phần bị thất bại trong cuộc đời hoằng dương Chánh pháp bởi thế giới loài người. Sư phụ của thầy viên tịch khi thầy mới 23 tuổi, lúc đó thầy được kế thừa trụ trì chùa Giác Ngộ trong khi thầy tu sau rất nhiều vị sư huynh nên thầy bị nhiều người ganh ghét và muốn hãm hại. Thầy đã từng bị hai ông tu sĩ đánh vì ganh tị, tật đố và còn rất nhiều chuyện khác, nhưng đó là những chuyện nhỏ. Cuộc đời của thầy vì quá nóng lòng muốn Phật giáo Việt Nam vươn lên ngang tầm với Phật giáo nước bạn, thầy quá nhiệt tình trong việc cải cách, đóng góp, xây dựng, mở mang, giúp cho nhiều người hiểu được lợi ích thiết thực trong việc đưa giáo pháp nhà Phật vào chương trình giáo dục chính thức để nhiều người cùng học hỏi và ứng dụng, vì quá nhiệt tình và nôn nóng nên thầy bị dính vào thế kẹt, tiến cũng không được mà thoái cũng không xong, vô tình rơi vào trạng thái bị nghi ngờ. Trong truyện Kiều có hai câu thơ:

Anh hoa phát tiết ra ngoài,

Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.

Người có tài khi còn quá trẻ, để cho nhiều người biết quá sớm là điều rất nguy hiểm, nếu thiếu phước đức có thể mất mạng như chơi, bằng không cũng dính vào vòng tù tội. Người tài giỏi mà để lộ cho mọi người biết quá sớm là một điều thất bại lớn lao, bởi con người hay có tâm niệm ích kỷ, nhỏ nhoi, ganh ghét, tật đố nên người có tài dễ gặp tai nạn trong đời, phải chịu cảnh long đong, gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống. Thông thường ai cũng muốn củng cố địa vị của mình nên sợ người khác tranh giành, thấy kẻ khác tài hơn mình thì tìm mọi cách dèm pha, gây trở ngại khiến đương sự không thể phát triển tài năng. Đó là một sự thật quá đau lòng nhưng tình đời là thế. Có người nhiều tài năng mà chẳng làm gì được bởi để lộ tài năng quá sớm, ai cũng sợ nên tìm cách ém nhẹm, không cho phát triển vì không muốn người khác hơn mình. Chúng ta cũng không nên bận lòng hay buồn bã vì chuyện đó, nó là bệnh chung của đa số chúng sinh. Những người này đáng thương hơn đáng ghét bởi họ quá ngu si và mê muội.

Người quá tài năng thường ít được may mắn vì có nhiều người sợ. Họ sợ cái gì? Sợ mất quyền lợi của họ. Các vị Tổ sư ngày xưa thường biết ẩn nhẫn, chờ đợi thời cơ, khi đã tiến thì không gì cản trở các ngài được vì nhân duyên đã chín mùi. Thay vì để dành tài năng đó mà trước mắt thầy Nhật Từ nên y chỉ một vị Hòa Thượng đạo cao đức trọng ở Việt Nam làm trụ trì để chuyên tu, học hỏi một thời gian thì chắn chắn thầy đã giúp ích được nhiều hơn cho nhân loại. Sư phụ của thầy là một Hòa Thượng bị khuyết tật nói ngọng, nói đớt từ khi còn nhỏ. Ngài chỉ một lòng miên mật hành trì Pháp môn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm mà sau này hết nói ngọng, nói nghiệu và thuyết pháp trôi chảy như mây, như mưa. Thật sự, thầy Nhật Từ quá tài giỏi, điều đó ai cũng công nhận. Nếu thầy khéo léo hơn một chút, ẩn nhẫn chờ thời, cố gắng tu tập một thời gian thì thế gian này sẽ tỏa sáng không gì ngăn ngại. Những việc làm của thầy không phải là sai mà chỉ là chưa đúng thời cơ và nhân duyên mà thôi. Có người hỏi tôi sao không theo phụ giúp thầy Nhật Từ để làm rạng rỡ công danh sự nghiệp mà về Thường Chiếu chụm lò làm chi cho cực khổ. Bản thân tôi không dám so sánh với thầy Nhật từ, vì tôi làm lại cuộc đời từ sự si mê sa đọa mà vấp ngã trầm trọng. Tôi chỉ là một kẻ bần sĩ thiếu học từ thuở nhỏ, đến khi vào Thiền Viện tu học tôi cũng chỉ lanh quanh, lẩn quẩn trong những công việc lao động chân tay mà thôi. Thầy Nhật Từ là một tiến sĩ Triết học có học thức uyên bác, tài ba lỗi lạc. Thầy nổi tiếng bao nhiêu thì tôi bị chê bai bấy nhiêu. Tôi là người từ cõi chết trở về, nhờ Phật pháp cứu vớt mà có thể làm lại cuộc đời. Tôi không có tài năng chi cả nên chỉ làm những việc cỏn con để được hai thời cơm cháo sống qua ngày. Thầy Nhật Từ có tâm nguyện lớn cứu độ chúng sinh, thầy đạo đức và tài giỏi bao nhiêu thì tôi xấu xa và dở bấy nhiêu.

Quẻ xăm của tôi với thực tế khác xa một trời một vực. Cùng một người bói mà quẻ đúng quẻ sai, tại sao lại thế? Đúng, tướng số sẽ đúng nếu người đó quyết tâm đi theo hướng đã sắp sẵn như quẻ của thầy Nhật Từ; còn tôi trong quẻ đâu có nói tôi đi tu, chỉ nói sau này tôi làm vua, làm quan lớn trong hai chế độ. Quẻ bói khẳng định thay đổi chế độ, quả thật điều đó rất đúng. Tôi là con người mưu mô, xảo quyệt và ỷ lại khi biết quẻ của mình như vậy, nên mặc tình rong chơi hưởng thụ, cuối cùng tôi bị sa đọa, vấp ngã nặng nề. Có người nói tôi có phước có phần thì không cần lo gì, thực ra cuộc đời của tôi cũng có phần đúng như quẻ đã nói. Nếu như tôi không ỷ lại vào tướng số thì chắc tôi cũng có thể theo nghiệp vua quan. Một bằng chứng thiết thực là khi đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất, trước đó tôi là một tên đầu trộm, đuôi cướp có danh sách chờ ngày lên đường cải tạo. Tôi khôn ngoan nắm bắt được thời cơ, phát tâm tự nguyện đi TNXP xây dựng các vùng kinh tế mới. Tôi đã thăng quan tiến chức một cách nhanh chóng, nhưng thói quen xấu không tha cho tôi vì quá đam mê, say đắm 4 món tứ đổ tường cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàn điếm, đụng vô món nào tôi cũng bị chết mê, chết mệt. Tôi có một thói quen mê muội khó bỏ nhất là dại gái, khi đã vào cuộc rồi thì không còn biết đường về. Tánh tình ương bướng, ngang ngạnh, nóng nảy, trực tính, không biết khuất phục một ai và chẳng biết sợ một thứ gì nên tôi dễ bị người ta thù hằn, ghét bỏ. Bù lại những khiếm khuyết đó, tôi có lòng tự tin khá vững vàng, khi muốn làm gì thì phải làm cho bằng được và cũng sẵn sàng vứt bỏ ngang hông nếu cảm thấy không được hài lòng. Đó cũng chính là những thói quen ngu si, mê muội đã làm cho tôi thất bại cay đắng trên đường đời. Tuy nhiên, tôi cũng thầm cảm ơn nó vì nhờ vậy mà ngày nay tôi có cơ hội và nhân duyên gặp được Phật pháp.

Thầy Nhật Từ thì siêng năng học hành từ nhỏ và giữ vững lập trường kiên định, có hướng đi rõ ràng; tôi thì ỷ lại và lao theo thói quen mê muội để hưởng thụ vì nghĩ số mình như vậy nên chẳng cần phải lo. Do đó mà tôi phải trả một giá quá đắt trong cuộc đời. Nếu không gặp được Phật pháp thì tôi bây giờ sẽ ra sao? Tuy nhiên, giáo lý nhà Phật có nói đến thuyết nghiệp báo, gồm có định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp cũng ví như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Trong kinh có nói đến câu chuyện dòng họ Thích Ca về sau bị vua Lưu Ly tàn sát. Dù Phật biết trước điều đó nhưng vẫn không thể ngăn cản được. Vua Lưu Ly là con thứ hai của vua Ba Tư Nặc và người con lớn là thái tử Kỳ Đà, người đã cùng hợp tác với tỷ phú Cấp Cô Độc cúng dường xây dựng Tịnh xá Kỳ Viên cho chư Tăng tu học và hành trì. Nguyên nhân dẫn đến sự tàn sát này là do quan niệm phân biệt giai cấp quá lớn trong thời kỳ đó, mẹ của vua Lưu Ly chỉ là một tỳ nữ bị dòng họ Thích ca tráo đổi vì chê vua Ba Tư Nặc không xứng đáng cưới công chúa chính thức thuộc dòng dõi tôn quý. Lúc vua Lưu Ly còn nhỏ, ngài về thăm quê ngoại thấy pháp tòa sang trọng nên leo lên ngồi chơi thoải mái, vô tình bị mấy người trong dòng họ Thích mắng chửi xối xả. Thái tử lúc đó còn trẻ mà bị mạt sát quá đáng nên trong lòng dấy lên hận thù, căm phẫn. Đường đường cũng là hoàng thái tử của một nước mà họ đã dám coi thường, chàng ta thề độc nếu sau này được lên làm vua sẽ quyết trả mối thù thâm sâu này. Từ ngày đó về sau, trong lòng thái tử chỉ có một niệm báo thù nên trong giấc ngủ lúc nào chàng cũng thấy mình lên làm vua rồi tàn sát dòng họ Thích Ca, xóa sạch tên họ trong bản đồ thời đó. Nhưng thực tế lại quá trớ trêu, thái tử vẫn còn một người anh là thái tử Kỳ Đà, người sẽ được quyền kế vị. Do tâm điên cuồng muốn rửa hận quá sớm, nhân một hôm vua cha đi chinh phạt nước láng giềng, thái tử liền giết anh mình và hiên ngang lên làm vua. Vua cha được tin báo khẩn cấp liền quay trở về nhưng cửa thành đã bị đóng, đêm đó ngài vì giận quá mà máu tràn ra cổ họng và chết liền tại chỗ. Khi có binh quyền trong tay, vua Lưu Ly bắt đầu chiêu tập binh mã tiến thẳng về thành Ca Tỳ La Vệ quyết rửa mối thâm thù năm xưa. Phật biết được nên 3 lần khuyên nhủ, ngăn cản vua không nên vì chuyện sai lầm của quá khứ mà làm tổn hại con người bây giờ, nhưng vua một bề nhất quyết trả thù. Định nghiệp đã hình thành, Phật cũng đành bó tay và cũng không cách nào cứu được dòng họ Thích ca. Ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất biết chuyện sẽ xảy ra nên đã tìm cách cứu nguy. Ngài dùng thần thông đưa cả dòng họ Thích lên trời để lánh nạn bằng một cái bát thâu nhỏ nhưng cũng không cứu được. Cuối cùng, dòng họ Thích bị tàn sát gần hết.

Câu chuyện trên là một bằng chứng thiết thực để mỗi người chúng ta cùng học hỏi và suy ngẫm. Khi định nghiệp đã hình thành thì ngay Phật vẫn không cứu được dòng họ của mình. Tuy nhiên, nghiệp phát xuất từ thân-miệng-ý của mỗi người. Nếu vua Lưu Ly không cố chấp mà biết nghe lời khuyên nhủ của đức Phật thì làm gì có việc giết hại quá đáng như thế. Cuối cùng, vua Lưu Ly và đám tàn quân cũng bị chết cháy sau 7 ngày, đúng là quả báo nhãn tiền chỉ vì suy nghĩ quá nông cạn. Nếu là người nhân từ đạo đức thì khi làm vua sẽ ích nước lợi dân, bằng ngược lại sẽ làm dân chúng lầm than, khổ sở.

Nghiệp có thể chuyển khi người đó có lòng bao dung độ lượng, biết cảm thông và tha thứ thì sẽ không có chuyện gì xảy ra. Như có một chú sa di nọ theo thầy học đạo khi còn nhỏ, ông thầy là người chứng đạo nên biết trước vị đệ tử của mình chỉ còn 7 ngày nữa là bị quả báo chết yểu. Ông thương tình cho chú về thăm nhà lần cuối mà không nói rõ lý do. Trên đường về nhà chú đi ngang qua một dòng suối, thấy một nhánh cây bị gãy trong đó có ổ kiến lớn đang bị dòng nước cuốn trôi, chú thương tình nhảy xuống suối vớt đàn kiến lên mà quên cả thân mạng của mình. Sau khi cứu đàn kiến xong, chú cảm thấy trong lòng rất nhẹ nhàng, thoải mái. Thời gian về thăm nhà đã hết 7 ngày, chú tiếp tục trở về chùa để làm tròn bổn phận của một chú sa di. Thầy chú quá đỗi ngạc nhiên nghĩ thầm, “xưa nay mình chưa đoán ai trật bao giờ, sao lại có chuyện như thế được?” Người thầy mới hỏi lại chú đệ tử, “trong suốt 7 ngày về thăm nhà con có làm điều gì phước đức không?” “Dạ bạch thầy không ạ. À, con nhớ ra rồi, trên đường về nhà con thấy đàn kiến bị nước cuốn trôi, con thấy tội nghiệp chúng quá nên đã nhảy xuống suối vớt đàn kiến lên rồi sau đó tiếp tục về thăm nhà”. Vị thầy nghe nói vậy liền nhập định xem sự thể ra sao thì mới biết chú đệ tử vì quên mình cứu đàn kiến mà được chuyển nghiệp, thay vì bị quả báu chết yểu, mạng sống của chú giờ đã thay đổi và sẽ sống đến 80 tuổi. Nhờ vậy chú luôn cố gắng siêng năng, tinh cần tu tập và phát nguyện rộng lớn để giúp người, cứu vật, do đó được thành tựu đạo quả giác ngộ giải thoát.

Câu chuyện vua Lưu Ly đã trở thành định nghiệp vì sự cố chấp, cố tâm báo thù nên Phật không thể nào ngăn cản được dù có sự trợ duyên của thần thông đệ nhất Mục Kiền Liên. Câu chuyện của chú sa di do quên mình cứu vật mà chẳng tiếc thân mạng, chỉ một lòng quyết tâm cứu đàn kiến nên nhờ vậy mới chuyển được ác nghiệp xấu từ quá khứ. Như chúng tôi đã nói, nghiệp hình thành từ thân-miệng-ý của chính mình do ba nghiệp xấu chiêu cảm nên khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện. Nếu ta một lòng thành tâm luôn trải rộng tấm lòng từ bi cứu giúp chúng sanh một cách chân thành, việc làm ấy sẽ cảm được tình thương rộng lớn mà dễ dàng chuyển hóa, thay đổi được ác nghiệp quá khứ. Không phải chỉ một đời này chú sa di đã làm như thế mà nhiều đời trước chú cũng đã từng gieo trồng phước đức cộng với sự thành tâm trong hiện tại nên thay đổi được nghiệp quả chết yểu. Do nghiệp báo quá đa dạng và phức tạp nên chúng tôi chỉ mượn hai câu chuyện trong kinh để chứng minh tướng số và số mệnh đều có thể thay đổi, chúng sẽ không đúng hẳn khi người đó có đủ can đảm và nghị lực để làm mới lại chính mình.

Nói về nghiệp báo gồm có định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp là khi làm việc gì phải hội đủ 3 yếu tố quyết định là thân-miệng-ý và có cố tâm, cố ý thì nhất định sẽ trả quả trong nay mai. Bất định nghiệp là làm bất cứ việc gì chỉ có thân, miệng mà không có ý chủ động, nên bất định nghiệp có thể thay đổi, không nhất thiết phải trả quả hoàn toàn. Làm người thì ai cũng có nghiệp tốt hoặc xấu lẫn lộn, nhưng nghiệp có thể thay đổi và chuyển được, tùy theo sự quyết tâm làm mới lại chính mình của người đó. Vua Lưu Ly dù đã được Phật khuyên nhủ và ngăn cản nhiều lần nhưng vì tự ái và bị tổn thương quá lớn mà một bề quyết chí hành sự, do đó gây nên trận thảm sát kinh hoàng với dòng họ Thích. Chú sa di nhờ quên mình cứu đàn kiến nên đã thay đổi được nghiệp nhân chết yểu.

Trở lại vận mệnh của tôi và thầy Nhật Từ. Quẻ của thầy Nhật Từ hoàn toàn chính xác, không có gì để bàn cãi vì thầy đã theo đúng hướng. Quẻ của tôi nói sẽ làm vua quan trong hai chế độ, nhưng sự thật có phải vậy không. Tôi bê tha, dính mắc ngay khi còn nhỏ, nghiện ngập, đam mê si dại, ích kỷ, hiểm độc, trộm cướp, lường gạt bằng mọi cách để có tiền thỏa mãn cho riêng mình. Tôi đã nhiều lần làm lại cuộc đời nhưng cũng không đủ khả năng để vượt qua cám dỗ. Đến khi gặp được Phật pháp chúng tôi mới đủ khả năng cùng niềm tin để vượt qua cạm bẫy cuộc đời tuy không phải dễ dàng như những gì bản thân mong muốn. Hiện tại, tuy đã là người xuất gia nhưng chúng tôi vẫn bị cám dỗ bởi nghiệp tình ái lôi cuốn quá mãnh liệt, dù không bị rơi rớt nhưng thật ra cũng có một chút tổn thương khá nặng nề. Vì nghiệp tình ái đã ăn sâu nhiều đời, nhiều kiếp nên khó ai lọt qua khỏi lưới này, ngoài trừ các vị Bồ tát hoặc chư Phật giáng thế. Vô số kiếp trong dòng đời nghiệt ngã, chúng ta đã từng luân hồi trong lục đạo nên nghiệp si ái đã hằn sâu trong tàng thức mỗi người. Vì yêu thích thân mình, muốn cho nó được hạnh phúc nên sanh tình cảm yêu thương người khác phái, tạo ra sự trói buộc và dính mắc lẫn thân và tâm. Từ nghiệp ái đó mà con người có mặt trên trần gian này. Chúng tôi là hạng người quá ngu si, mê muội, đa tình, đa cảm, người đời hay nói là có số đào hoa. Ái còn có nghĩa là yêu thích, quyến luyến, là nguyên nhân dẫn đến hạnh phúc hay đau khổ. Rõ ràng, tướng số nói cũng đúng, vì làm vua hay quan thì có nhiều thê thiếp, mà người có nhiều thê thiếp tức nặng nghiệp si ái. Bởi si ái, chấp ngã nên tôi dễ nóng giận, quen ăn to nói lớn theo kiểu quan quyền, vua chúa và hưởng thụ quá mức. Tuy tôi hiện tại đã thay hình đổi dạng rất nhiều, có thể chuyển được vô số nghiệp ác, nhưng nhiều đời tập khí sâu dày nên vẫn phải miên mật gội rửa không một phút giây lơ là như người rình kẻ trộm. Nếu lơ mơ, lờ mờ một chút thì thói quen xấu vẫn có cơ hội sai sử và chi phối như ngựa quen đường cũ, do đó nhiều người ở thế gian đành bó tay xin chào thua là vậy.

Muốn thay đổi và chuyển hóa thói quen xấu nhiều đời chúng ta phải có cái gì thay thế vào chỗ đó bằng những việc làm thánh thiện. Đến khi nào trong tâm chúng ta không còn bị pháp ác ràng buộc thật sự thì lúc đó ta mới bắt đầu xả những thiện pháp, làm mà không thấy mình làm, tu không thấy mình tu, vẫn làm việc phục vụ nhiều người mà không bị các pháp trói buộc. Cuộc đời tôi thật quá ư phũ phàng, tôi không làm vua quan gì cả mà hoàn toàn đi ngược lại quẻ số. Nếu ai cũng chấp trước và bám víu vào số phận đã an bài thì thế gian này không ai còn tâm trí đâu để làm việc và dấn thân phục vụ xã hội, vô tình đưa con người vào chỗ thụ động, biếng nhác, bi quan, chán chường. Thế gian này sẽ khô khan, cằn cỗi vì con người sống không có tình nghĩa với nhau. Quả thật là một tai hại quá lớn khi ai có những suy nghĩ và hành động như vậy.

Tôi,

Lang thang lận đận thuở thiếu thời,

Bôn ba khắp chốn si mê độn,

Công danh sự nghiệp càng đi xuống,

Hết đường tìm cách chầu âm phủ.

Sự thật phũ phàng lại trớ trêu,

Từ khi được mẹ trao bí kiếp,

Gặp được minh sư chuyển kiếp hèn,

Không ngờ số phận được đổi thay.

a kia lầm chấp chết là hết,

Nên đành chấp nhận chịu khổ đau,

Nay gặp Tam bảo bừng tỏ sáng,

Chuyển được mê lầm từ muôn kiếp.

À!

Tình nghĩa bây giờ có thiếu chi,

Tưởng đâu xa lắm ngay nơi mình,

a nay lầm nhắm bên ngoài kiếm,

Giờ thì đã biết thật rõ ràng.

Như vậy, tướng số sẽ đúng với người chấp nhận số phận đã an bài, như trồng dưa được dưa. Ngược lại, người gan dạ, ý chí can đảm khi đã tin sâu nhân quả sẽ cố gắng vượt qua số phận tuy không phải dễ dàng. Tướng số của tôi hoàn toàn đi ngược lại dự đoán. Theo tướng số thì tôi tuổi Canh Tý, mạng Bích thượng thổ, là đất trên vách tường, quan đâu chẳng thấy, vua lại cũng không, chỉ xuýt chút toi mạng vì ngu si, mê muội.

Tôi,

Mê muội khi còn nhỏ,

Ngu xuẩn chẳng ai bằng,

Thẳng ruột từ khi bé,

Tới nay vẫn còn vậy,

Nhiều đời tập khí sâu,

Khi tu thì có bớt,

Nhưng chẳng thấm vào đâu,

Sức nghiệp mạnh quá chừng,

Nếu lơ là một chút,

Nó liền quay trở lại,

Do đó biết bao người,

Đành bó tay chào thua,

Hôm nay có cơ hội,

Xin đôi lời tâm sự,

Chư huynh đệ gần xa,

Mong cùng nhau suy gẫm,

Để vượt lên số phận,

Chớ yếu đuối chào thua,

Hãy dũng mãnh siêng năng,

Vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Thông thường, trong sách tướng số hay nói:

Có tâm tốt không tướng tốt,

Tướng tốt theo tâm tốt sanh,

Có tướng tốt không tâm tốt,

Tướng tốt theo tâm xấu mất.

Rõ ràng, tướng số cũng không cố định một chiều. Nếu chúng ta biết cố gắng làm việc tốt và chuyển tâm xấu ác thành tâm tốt thì quả sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt. Ngược lại, nếu người đó ỷ lại vào tướng số rồi làm chuyện phi pháp bất chánh như giết người chẳng hạn thì dù có tướng tốt cũng trở thành tướng xấu. Vì thế, thầy tướng số lúc nào cũng dùng câu thòng chứ ít bao giờ khẳng định. Như vậy, tướng số chỉ đúng một phần, hiện tại thế nào còn phải do chúng ta quyết định chín phần.

HẠNG NGƯỜI TỪ TỐI VÀO TỐI

Thế nào là tối? Tối ở đây là đen tối, hắc ám, u mê, tối tăm, dụ cho những việc làm xấu ác như giết hại, trộm cướp, tham lam, độc ác, tàn bạo, vô luân, nóng giận, thô lỗ, tiêu diệt, hủy hoại và không biết đúng sai. Do nhân như thế nên hiện tại sinh ra chỗ ty tiện, thấp kém, làm người ở đợ, đồ tể, lưới bẫy, nô lệ, gánh phân, lại bị người sai làm các việc hạ tiện, thân thể xấu xí, nghèo hèn, bệnh tật, chết yểu, đều gọi là tối.

Giết hại là cướp đoạt lấy mạng sống của chúng sinh gồm người và vật. Đối với chúng sinh mạng sống quý hơn tất cả, ai ai cũng tham sống sợ chết dù là con người hay các loài vật. Nếu chúng ta biết yêu quý mạng sống của mình như thế nào thì người và vật cũng yêu quý mạng sống như thế đó. Vậy tại sao ta nỡ tước đoạt mạng sống của chúng sinh? Khi giết hại một mạng sống, chính bản thân nạn nhân bị giết oán thù tăng lên chồng chất, oan gia này chất chứa mãi, đến khi hội đủ nhân duyên sẽ báo thù trở lại, đó là luật nhân quả vay trả tuần hoàn. Chỉ vì ham muốn và thèm khát mà chúng ta đành lòng giết hại chúng sinh.

Thấy được thế gian luôn tương tàn tương sát lẫn nhau, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu để bảo tồn mạng sống cho riêng mình, đức Phật với lòng từ bi vô hạn nên đã hướng dẫn hàng đệ tử xuất gia không được giết hại dù trong tâm tưởng, huống hồ là trực tiếp giết hại. Thời Phật còn tại thế, đến mùa mưa là mùa sinh sôi nẩy nở của các sinh vật. Thuở ấy các thầy Tỳ kheo phải đi khất thực nên Phật vì thương xót mà chế ra ba tháng an cư tu tập tại chỗ để tránh giẫm đạp, giết hại các sinh vật. Hạng đệ tử tại gia Phật chế giới không được giết người là chính, còn từ con vật lớn như trâu, bò, heo, cừu, dê, gà, vịt, cho đến các con vật nhỏ cần hạn chế tối đa được chừng nào tốt chừng đó.

Hết thảy chúng sinh lìa nghiệp giết,

Mười phương thế giới dứt binh đao.

Người người theo Phật tu nhân thiện,

Cùng nhau chung hưởng cảnh thái bình.

Nếu mọi người ai cũng ý thức giữ giới không sát sinh hại vật thì thế giới này sẽ không còn chiến tranh, binh đao, sóng thần, động đất, lũ lụt, dịch bệnh và không còn phải lo sợ bị trả thù nên không bao giờ lo lắng và sợ hãi. Đã không giết hại lại hay tu nhân thiện lành nên mọi người sẽ sống trong bình an, hạnh phúc.

Trong các tội giết hại, giết người là tội nặng nhất và là tội ác lớn nhất nên giết người đa số phải chịu án tử hình đền mạng. Đó là hình phạt cao nhất trong các hình phạt. Thế nên hành vi tước đoạt mạng sống con người là tội ác cực kỳ nguy hiểm. Theo sự công bằng của xã hội, một kẻ giết người chắc chắn sẽ bị quả báo bị giết trở lại. Đôi khi luật pháp chỉ phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc chung thân là cùng, nhưng luật nghiệp báo không dễ dàng tha thứ. Vì sao? Vì chúng ta ai cũng coi sinh mạng mình là đáng tôn trọng tuyệt đối, nếu có ai âm mưu muốn hại là mình chống trả quyết liệt để bảo tồn mạng sống. Giết chết một mạng người tội ác rất lớn, là nhân gây thù chuốc oán đời này, đời sau. Nếu người bị giết lúc đó khởi niệm oán hận muốn trả thù thì đời sau họ sẽ trở thành thủ phạm khi hội đủ nhân duyên. Thực tế đã cho thấy rõ điều này, có người khi mới gặp ta cảm thấy mến thương, có người vừa gặp ta cảm thấy oán ghét, khó chịu. Do niệm căm thù muốn trả thù đã ăn sâu vào tàng thức nên khi gặp lại họ liền nhớ ngay. Do đó, là người con Phật chúng ta phải cẩn thận từng lời nói, hành động, ý nghĩ của mình để không xảy ra những lỗi lầm đáng tiếc. Nó sẽ biến thành hành động trong nay mai khi đã hội đủ nhân duyên.

Trường hợp chúng ta giết hại quá nhiều thì quả báo về sau là vô số kiếp bị giết hại lại, bị đọa vào chỗ khốn cùng để trả quả xấu. Nếu được làm người thì bị quả báo chết yểu, bệnh tật, thân thể xấu xí, nghèo hèn. Tuy nhiên, không phải giết người là tội như nhau, nếu người cố tình giết người để cướp của thì tội nặng hơn, vì đây là tội cố tình đã tính toán trước, cũng như do oán thù muốn giết người cho hả giận; ngược lại, nếu chỉ cướp của mà bị người phát giác nên sợ quá giết người phi tang thì tội sẽ nhẹ hơn; cũng giống như trường hợp của Tào Tháo với quan niệm thà giết lầm hơn bỏ sót dù đó là người ơn, tội này rất nặng vì đã có tâm cố sát. Tào Tháo một hôm bị thất trận trên đường tị nạn mới nhớ mình có người bạn thân nên ghé qua nhà tá túc. Bạn bè lâu ngày không gặp nên gia đình kia mừng quá đón tiếp thân mật, người chồng bèn đi mua rượu và sai gia nhân ở nhà chuẩn bị giết heo đãi khách. Nghe tiếng mài dao sột sạt phía sau, Tào Tháo sanh nghi nghĩ bạn mình đi báo quan và sai người nhà chuẩn bị vũ khí nên ra tay sát hại không thương tiếc. Người bạn thân đang hân hoan đi về với bình rượu trên tay, sợ bị tố giác nên Tào Tháo cũng nhẫn tâm không tha mạng. Nghiệp chinh chiến lúc nào cũng làm con người ta lo sợ, nghi ngờ vì ai cũng tham sống sợ chết. Tào Tháo trong cơn sợ hãi bị thua trận nhưng may mắn thoát chết nên đi tới đâu cũng bị ám ảnh ai cũng là kẻ thù cộng với nhận định, hiểu biết sai lầm nên si mê, chấp ngã mà giết hại lẫn nhau. Chính vì vậy mà các vua quan thời phong kiến khi giết một ai do tội phản bội đều ra lệnh giết sạch 3 họ vì sợ bị trả thù.

Tình đời là thế, cứu vật vật trả ơn, giúp người người trả oán. Gia đình người bạn đang sống êm đềm hạnh phúc, chỉ vì một chút nhân duyên bè bạn mà cả gia đình đồng chịu nạn thảm sát. Thời chiến tranh lọan lạc con người càng thêm độc ác hơn vì ai cũng muốn bảo tồn mạng sống. Khi đã gieo nghiệp ân oán, thù hằn, giết hại lẫn nhau thì dễ dẫn đến nghi ngờ, sợ sệt nên Tào Tháo thà phụ người chứ không để người phụ. Điều này cho thấy con người vì muốn bảo vệ tính mạng của mình nên sẵn sàng giết hết tất cả chỉ vì tham sống sợ chết. Ngày xưa, chiến tranh xảy ra chưa có vũ khí hiện đại nên sự giết hại cũng hạn chế. Con người do lòng tham mê chấp ngã, nghĩ mình là trung tâm vũ trụ nên muốn làm bá chủ thiên hạ, do đó bất chấp mọi hiểm nguy, ỷ tài cậy sức mà tung hoành ngang dọc thu phục thiên hạ, theo thì sống, không theo thì chết. Sau này khi đã nắm được quyền hành, những người không theo Tào Tháo đều giết sạch, ai chỉ nghi ngờ ông cũng giết luôn nên có câu “thà giết lầm hơn bỏ sót” là vậy. Do si mê chấp ngã và lợi dụng mình là Thiên tử, tức con trời được thừa hành đấng tối cao trị vì thiên hạ mà thời phong kiến ai làm vua thì có nhiều cung phi mỹ nữ, người hầu kẻ hạ, muốn ăn món nào thì dù có lên rừng thiêng nước độc hay lặn xuống biển sâu cũng phải tìm cho vua ăn bằng được.

Ngày nay, trên đà phát triển của văn minh loài người, con người càng ngày càng thêm tiêm nhiễm thói quen tật xấu, hưởng thụ trác táng, ăn chơi nên mặc tình gây tạo tội lỗi. Tệ nạn xã hội càng ngày càng gia tăng một cách khủng hoảng do nền giáo dục qua sách báo, phim ảnh đồi trụy một cách công khai dẫn đến tha hóa lòng người. Nhiều vụ giết người dã man chỉ để lấy vài trăm ngàn tiêu xài, như có trường hợp một bé gái mới 14 tuổi vì không có tiền chơi game nên đành đoạn giết một em bé 2 tuổi lấy đôi bông tai đem bán chỉ với 290 ngàn đồng. Vô số trường hợp giết người một cách tàn nhẫn chỉ vì một chút lợi nhỏ, đạo đức nhân cách, phẩm chất con người thời nay xuống cấp quá mức đã đến hồi báo động, pháp luật cần phải có biện pháp và cách thức để ngăn ngừa giết hại. Các nhà lãnh đạo, nhà giáo dục, nhà tâm linh cần ngồi lại để tìm ra giải pháp, cách thức làm sao giúp con người nhận thức sáng suốt về những nỗi khổ, niềm đau từ sự giết hại. Theo quan niệm thần quyền ông trời sinh ra vạn vật để phục vụ thần linh và con người. Ai theo truyền thống này sẽ cám ơn thượng đế vì đã ban ơn cho họ, nên ngày xưa họ cúng thần linh rất nhiều loài vật, mỗi lần như thế là hàng trăm con vật. Xã hội thế gian giết người phải đền mạng có luật lệ rõ ràng, loài vật kém phước hơn nên không có luật pháp hạn chế, ta không nên vì thế mà cố tình giết hại. Vì quan niệm trời sanh ra vạn vật, con vật dùng để cúng tế thần linh và phục vụ con người nên có học thuyết vật dưỡng nhơn. Từ chỗ thấy bản ngã của mình là trên hết mà ta chấp trước, bám víu, lợi dụng lòng tin thiếu hiểu biết mà tán thành việc giết vật dưỡng nhơn.

Theo quan niệm nhà Phật, không có một cá nhân tạo ra tất cả, mọi thứ đều do nhiều nguyên nhân kết hợp lại mà thành, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Mọi thứ đều diễn biến theo tiến trình của nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau. Nhà Phật có nói về tội ngũ nghịch, gồm các tội làm thân Phật chảy máu, giết A la hán, phá hòa hợp Tăng, giết cha, giết mẹ. 5 trọng tội này là tội nặng nhất trong các tội giết người. Ai phạm vào những trường hợp này đều phải trả quả khổ báo cùng cực vô số kiếp trong địa ngục Vô Gián (chịu khổ liên tục) và bị giết lại thường xuyên ở nhiều kiếp về sau. Người này sẽ bị đánh đập, hành hạ, đày đọa cực kỳ đau khổ vì sự ra đi của người bị giết là sự mất mát to lớn của thế giới loài người. Những người này đã từng đem lại nhiều lợi ích lớn lao cho nhân loại. Chúng ta nên nhớ có cha mẹ mới làm nên thân, được dưỡng nuôi, lo vật chất đầy đủ. Ngoài cha mẹ, thầy Tổ giúp tinh thần, an vui trong tỉnh giác. Vì thế, cha mẹ và thầy Tổ ơn sâu khó đáp đền và cao cả như thế mà chúng ta nhẫn tâm giết hại thì thật sự hết sức đau lòng. Giết một vĩ nhân thánh thiện để lại nỗi niềm tiếc nuối đau thương, vì thế giới phải mất đi một chỗ nương tựa vững chắc cùng những phút giây bình an nhất do người đó mang lại. Ấy vậy mà thế gian vẫn thường xuyên có chuyện đó. Nhân tình thế thái đã mất hết lương tri, phạm vào tội này quả thật khó bề cứu chữa. Người ơn của mình mà còn như vậy thì nói gì đến người dưng nước lã, tội này khó bề sám hối, kẻ sát nhân phải chịu quả cực kỳ đau khổ, khi làm súc sinh bị đánh đập giết hại trở lại, nếu được làm người thân thể phải xấu xí, bệnh hoạn, tật nguyền, chết yểu.

Vua A Xà Thế vì ham uy quyền thế lực cũng đã nhẫn tâm cướp đoạt ngôi vua và hành hạ cha mình trong ngục tối cho đến chết. Sau nhờ Phật tế độ mà vua nhận ra sai lầm, từ đó ăn năn, sám hối với lòng thành khẩn, thiết tha, phát tâm quy y Tam Bảo, nguyện hộ trì Chánh pháp và hướng dẫn dân chúng an cư lạc nghiệp trên tinh thần vì lợi ích mọi người; nhờ vậy đất nước luôn sống trong tình đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Sau khi Phật niết bàn, vua A Xà Thế là người đứng ra phân chia xá lợi và cũng là người đầu tiên đứng ra hỗ trợ cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất tại núi Kỳ Xà Quật, do tôn giả Ca Diếp chủ trì. Luận về nhân quả của vua A xà thế, ta thấy nhờ công đức sám hối, cải tà quy chánh, biết phục thiện nên hiện đời làm được vô số việc phước thiện lớn lao và còn hướng dẫn dân chúng biết làm lành lánh dữ, tu nhân tích đức. Tội giết cha để chiếm đọat ngôi vua đáng lẽ phải chịu tội chết thê thảm nhưng do biết ăn năn, hối hận, cải tà quy chánh, làm nhiều việc lợi ích lớn lao mà chuyển hóa được. Người có uy quyền thế lực do nhiều đời tích lũy phước báo nên đời này mới được làm vua, làm vua thì nắm quyền sanh sát trong tay. Nếu là vị vua nhân từ, đức độ thì sẽ giúp dân được no cơm ấm áo, dân giàu nước mạnh, an lạc thái bình; ngược lại sẽ làm dân tình khốn khổ, khó khăn thiếu thốn, đời sống bần hàn, cơ cực, luôn sống trong lo âu, sợ hãi và bất an.

Lịch sử loài người từ khi khai thiên lập địa cho đến nay đã có không biết bao nhiêu cuộc tàn sát, giết hại lẫn nhau chỉ vì muốn làm bá chủ thiên hạ. Do nghiệp giết hại chiêu cảm mà thế giới lúc nào cũng có chiến tranh, binh đao giết hại, tàn sát lẫn nhau bởi nhân quả tương tàn, tương sát. Phật đã nhìn thấy rõ điều này nên cấm người xuất gia không được giết hại, phần người cư sĩ hạn chế bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu.

Trong kinh nói:

Ai ai cũng sợ gươm đao,

Ai ai cũng quý mạng sống,

Lấy lòng mình suy lòng người,

Chớ giết, chớ xúi người giết.

Đối với chúng sinh mạng sống quý hơn tất cả, nếu chúng ta biết yêu quý mạng sống của mình thì người và vật cũng yêu quý mạng sống như thế. Vậy sao ta nỡ tước đoạt mạng sống của chúng sinh? Ngày xưa, con người hay mang danh đấng quyền năng để thu phục thiên hạ, ai theo thì sống, không theo thì chết nên sự giết hại quá nhiều, làm lòng người càng thêm oán hận. Cứ thế đời này kiếp nọ vay trả, trả vay không có ngày thôi dứt. Do sự giết hại cùng một lúc quá nhiều người mà thế giới lúc nào cũng xảy ra chiến tranh, thiên tai, sóng thần, động đất, lũ lụt và nhiều loại dịch bệnh. Việc giết một người biết tu nhân tích đức, luôn hướng dẫn cho nhiều người tu hành, đã từng đem lại lợi ích lớn lao cho nhân lọai thì tội càng nặng hơn. Tên bạo ác phải chịu khổ báo cực kỳ đau khổ, vô số kiếp bị giết hại trở lại và kèm theo quả báo si mê, đần độn. Nghiệp tội này không biết bao giờ mới trả cho hết với những quả khổ liên tục dù mang bất cứ ở hình dạng nào, nếu làm thú thì bị đánh đập, giết hại thường xuyên; khi làm người thì bần tiện, khốn cùng, nghèo khổ, đói rách, cô đơn, thiếu thốn, mọi người khinh ghét, xa lánh hoặc bị giết hại vô cớ. Nếu người bị giết có công trạng lớn lao với quốc gia, thế giới, đã từng đem lại nhiều lợi ích cho nhân lọai thì sự giết hại này mang tội rất nặng. Hiện đời kẻ sát nhân phải chịu quả báo mạng đền mạng và vô số kiếp bị đọa vào chỗ khốn cùng, nếu được làm người sẽ bị trù dập, hãm hại, bị khủng bố, thân phận thấp hèn và chịu nhiều quả báo bệnh tật, chết yểu. Khi giết một người tức đã cướp đọat đi sự nghiệp đang gầy dựng của người đó, quả báo về sau dành cho họ là nhiều đời nhiều kiếp sinh ra bị bỏ rơi, nghèo khổ, lang thang, ngu dốt, đói khát.

Một trường hợp đặc biệt khác khi đức Bồ Tát cùng đi chung một chiếc thuyền buôn gồm có 500 người trong một tiền kiếp xưa. Khi thuyền gặp phải bọn cướp, chúng ra tay định sát hại mọi người thì Bồ tát đã nhanh tay giết bọn chúng trước. Trong trường hợp này tội phước ra sao? Bồ Tát có phạm vào giới sát hay không? Dĩ nhiên vẫn có tội với bọn cướp, nhưng việc cứu 500 thương buôn khỏi họa bị giết người cướp của, vẫn sống an ổn, bình yên lại tạo phước rất lớn; do đó tuy phạm mà không phạm, đây là giới Bồ Tát vì cứu nhiều người lương thiện và diệt trừ tệ nạn phi pháp. Cứu sống được 500 người thương buôn sẽ đảm bảo đời sống an sinh cho nhiều người, tuy có tội với bọn cướp nhưng không đáng kể; do đó tội phước cũng không cố định, tùy theo nguyên nhân mà kết thành tội hay phước. Nếu giết một người là lao động chính trong gia đình sẽ làm cả nhà bơ vơ, côi cút, thiếu thốn, khó khăn, nghèo khổ, không còn khả năng sinh sống; ngoài việc chịu quả báo hiện đời bị tử hình hoặc chung thân thì còn chịu thêm nhiều đời sinh ra bị bỏ rơi, nghèo khó, không nơi nương tựa. Khi giết một người để lại sự mất mát, đau khổ cho nhiều người thì gây ra oán hận, thù hằn chồng chất; kẻ giết người sẽ khổ não, thất vọng và sụp đổ trong nhiều kiếp về sau.

Tuy nhiên, không phải giết người là tội bằng nhau, tùy theo mức độ giá trị của người bị giết mà sẽ trả giá nhiều hay ít. Trường hợp giết người do bảo vệ biên cương, bờ cõi để mọi người được sống bình yên, an ổn do ngọai bang xâm lăng thì tội này cũng không đáng kể vì đã có công giữ gìn đất nước. Vậy tội hay phước còn tùy giá trị người bị giết chứ không cố định một chiều. Những người đang thi hành nhiệm vụ để bài trừ tệ nạn xã hội mà tình cờ bắn chết một tên trùm ma túy nguy hiểm đã gây mầm đầu độc con người, làm tổn hại nhiều cho nhân lọai sẽ giúp đất nước giảm được thiệt hại nặng nề về con người lẫn vật chất; giết tên tội phạm này vừa được khen thưởng lại rất xứng đáng tuyên dương vì đã góp phần vào công cuộc cải thiện văn minh tiến bộ cho con người, giúp xã hội không bị những thứ độc hại quyến rũ và xâm phạm.

Vì việc giết hại do sự chấp ngã mà ra nên một số người đã lợi dụng quyền thế đặt ra học thuyết “vật dưỡng nhơn”, trời sinh ra vạn vật để phục vụ con người và thượng đế. Ai theo truyền thống này sẽ cảm ơn thượng đế vì đã ban cho họ lộc ăn nên mặc tình giết hại, ăn thịt chúng sanh. Vậy thực sự loài thú có chấp nhận đem mạng sống nuôi mạng người hay không? Một sự thực không thể chối cãi được là thế gian này tương tàn, tương sát lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ. Loài vật lớn dùng sức mạnh bắt những con vật nhỏ để ăn. Con người khôn hơn đã lợi dụng danh đấng quyền năng để phục vụ cho mình. Với quan niệm cúng tế thần linh, ngày xưa khi đến ngày lễ người ta phải giết hàng trăm sinh vật để tế thần, sau bày biện thức ăn hưởng lộc. Đức Phật ra đời chỉ dạy quả báo của sự giết hại nên dần dần tập tục mới thay đổi. Nếu ai cũng nghĩ thượng đế sanh ra vạn vật để phục vụ con người thì thật là quá bất công, tội lỗi. Khi giết con vật như trâu, bò, heo, dê, chúng vẫn giẫy giụa, kêu la thảm thiết; thậm chí có con khi biết sắp sửa bị giết còn rơi nước mắt trông rất tội nghiệp. Thật ra, đâu có con vật nào tự hiến mình nạp mạng, chỉ vì chúng yếu thế hơn phải đành chấp nhận chịu vậy mà thôi.

Nhớ lại những năm 78, 79 chúng tôi ở những nơi rừng sâu, nước độc để làm công tác xây dựng vùng kinh tế mới. Nhiều người dân tộc cũng thường làm bẫy để bắt những con thú lớn, nhất là loài heo lẻ bầy rất hung dữ. Mỗi khi bị treo giò vì mắc bẫy, chúng sẵn sàng cắn đứt một chân rồi ở lại rình chủ nhân để trả thù. Đây là kinh nghiệm của những người làm nghề bẫy thú kể lại. Đây là bằng chứng cho thấy loài thú không hề hoan hỷ cống mình nạp mạng cho con người. Ngược lại chúng nói “người dưỡng vật” thì mình có chịu không? Chắc chắn là không! Vậy tại sao chúng ta bắt “vật dưỡng nhơn”? Ngay đến con muỗi, con rệp chích lấy chút máu mà ta còn không chịu, vẫn sẵn sàng đập chết không thương tiếc; vậy mà mạng sống loài vật ta vẫn không đoái hoài nghĩ lại. Loài người thật quá bất công! Vì ham muốn và thèm khát để bồi bổ thân mình mà đổ thừa “vật dưỡng nhơn” như thế.

Tuy nhiên, dù giết sinh vật để cung cấp thực phẩm cho con người cũng là tội, nhưng tội này tùy theo giá trị của sự giết hại mà tội và phước sẽ có phần cụ thể. Phước ở đây là cung cấp thực phẩm để phục vụ con người, do đó ta phân ra làm 3 vế: người nuôi, người giết và người ăn. Có người đổ thừa tại có người ăn nên mới có người nuôi và người giết. Vâng, đúng là như thế! Vấn đề này Phật đã thấy rõ ràng. Thế gian là một chuỗi dài nhân duyên, là một cái vòng lẩn quẩn tương tàn, tương sát lẫn nhau; lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu để bảo tồn mạng sống. Bởi thế vì lòng từ bi vô hạn nên Phật đã chế ra giới không được giết hại đối với người xuất gia, không trực tiếp giết, xúi bảo người giết, không hoan hỷ khi thấy người giết dù chỉ trong tâm tưởng.

Người Phật tử tại gia trước tiên không được giết người và hạn chế tối đa từ con vật lớn cho đến các con vật nhỏ, bất đắc dĩ lắm ta mới giết vật để nuôi thân này. Cho nên Phật nói “có thân là có khổ”, vì muốn bảo tồn sự sống mà chúng ta đành lòng giết vật. Người Phật tử vì hoàn cảnh sống nên phải nuôi súc vật bán để lấy tiền nuôi thân, nhất là những người ở vùng quê xa xôi hẻo lánh, họ chỉ nuôi bán mà không trực tiếp giết hại, tuy vẫn có tội nhưng nhẹ hơn người trực tiếp giết. Tội ở đây là khi giết hại mạng sống con vật làm chúng đau đớn giẫy giụa khi bị cắt cổ, mổ bụng. Người con Phật phải biết khôn ngoan, sáng suốt chọn lựa nghề nghiệp chân chánh để ít làm tổn hại các loài vật; ở đây ai khôn thì nhờ, ai dại thì chịu, vì đó là qui luật sống để sinh tồn của thế gian, không còn con đường nào khác. Trường hợp bất đắc dĩ vì sinh ra ở vùng sông biển nên phải làm nghề chài lưới đánh bắt các loài thủy sản, nhưng ta không nên đánh bắt các loài còn quá nhỏ vì luật pháp vẫn cấm đoán và có hình phạt rõ ràng khi vi phạm. Tuy nhiên, luật nhân quả không dễ dàng tha thứ khi hội đủ nhân duyên khi ta quá tàn ác và nhẫn tâm. Điều chính yếu Phật chế giới cho người tại gia là không được giết người, các loài vật từ lớn đến nhỏ hạn chế tối đa được bao nhiêu hay bấy nhiêu, cho đến khi nào đủ điều kiện thì chúng ta giữ giới hoàn toàn không giết hại.

Nhiều người tuy hiểu biết Phật pháp, tuy tin nhân quả nhưng không dám quy y vì sợ tội nhiều hơn nếu lỡ phạm giới. Xin thưa với quý vị, đã phạm tội thì ai cũng bị xử lý như nhau, nhưng người con Phật khi phạm tội sẽ nhớ mình là phật tử mà cố gắng sám hối, ăn năn, ráng chừa bỏ, rồi từ từ tội diệt phước tăng. Người không quy y khi làm tội không biết sám hối chừa bỏ và không có chỗ nương tựa, do đó tội chồng tội vô tình rơi vào hố sâu tội lỗi. Phật chế giới không giết hại vì lòng từ bi vô hạn đối với muôn loài để chúng ta thấy rõ sự tác hại của nó mà cố gắng tìm cách vượt qua. Vì thế, là người Phật tử ta phải biết khôn ngoan, sáng suốt chọn lựa nghề nghiệp chân chánh để sinh sống làm sao không làm tổn hại đến muôn loài, muôn vật.

Trong cuộc sống khó tránh khỏi việc giết hại bất đắc dĩ như làm ruộng, trồng hoa màu để cung cấp và phục vụ cho con người, phải sịt thuốc trừ sâu, làm vệ sinh hại đến các loài trùng, kiến. Vậy người con Phật phải làm thế nào trong trường hợp này? Muôn lòai trên thế gian vốn tồn tại trong nhịp cầu nhân quả tương quan mang tính cách tương đối, nếu con người biết điều hòa phù hợp thì sẽ hạn chế tối đa sự giết hại. Ruồi, muỗi, chuột, gián là những loài có thể lây lan bệnh tật cho con người, vì bảo vệ sức khỏe mà chúng ta tiêu diệt chúng một cách không thương xót. Thật ra, nếu ta sống vệ sinh, ngăn nắp, thường xuyên dọn dẹp sạch sẽ thì sẽ hạn chế việc giết hại các loài vật. Thời Phật tại thế có vị tỳ kheo vì muốn giữ giới trong sạch nên không dám dọn dẹp, làm vệ sinh sạch sẽ chung quanh nhà vì sợ làm chết các loài côn trùng. Phật biết được nên chỉ dạy, “ông chỉ dọn dẹp sạch sẽ, đừng khởi tâm sát hại là được, không sao! Nơi nào không làm vệ sinh, dọn dẹp sạch sẽ là nơi có cơ hội phát sinh các loài sinh vật có hại. Vậy trong nhà có nhiều kiến thì phải làm sao? Kiến là loài vật sống bám theo con người do cộng nghiệp chiêu cảm, chúng sống nhờ những thức ăn dư thừa. Muốn cho chúng không sinh sôi nẩy nở, hoạt động tràn lan trong nhà thì chúng ta mỗi ngày phải biết bố thí cho chúng và cố gắng sắp xếp một chỗ thật xa nhà nhất để chúng có thức ăn sinh sống, bảo đảm chúng sẽ không làm phiền chúng ta. Việc làm này chúng tôi đã từng thí nghiệm và có kết quả như ý muốn. Giết hại là một thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật làm cho nhân lọai khổ đau. Chúng sinh bất ổn là nhân tối tăm, u mê, mờ mịt. Loài vật khi bị giết hại sẽ oán hận ăn sâu vào tàng thức rồi trở thành oan gia trái chủ, khi hội đủ nhân duyên sẽ trả thù trở lại.

Tóm lại, hạng người từ tối vào tối là hạng người kém phước đức do đời trước làm nhiều việc xấu ác như giết hại, trộm cướp, tham gian, tà dâm, vô luân, tàn ác, hung bạo. Đời này sinh ra chỗ ty tiện, thấp kém, tà kiến sâu nặng, không tin nhân quả nên 3 nghiệp thân-miệng-ý tiếp tục gieo tạo tội lỗi. Do chủng tử thói quen xấu nhiều đời quá sâu dày nên không có hiểu biết phân định đúng sai phải đành chấp nhận số phận đã an bài, suốt đời sống trong đau khổ, lầm mê.

QUẢ BÁO CỦA SỰ GIẾT HẠI

1. Đọa ba đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

2. Bị bệnh tật chết yểu khi được làm người trở lại.

3. Tâm ác độc giận dữ, tàn bạo hung ác nhiều đời khó dứt.

4. Tâm luôn lo lắng, sợ hãi, bất an vì sợ bị trả thù.

5. Người và vật thường xa lánh, không dám gần gũi.

6. Ngủ mơ nhiều ác mộng.

7. Tất cả chúng sinh đều oán hận chờ cơ hội trả thù.

8. Khi gần chết điên cuồng sợ hãi.

Người Phật tử chân chánh phải nên dứt khoát xa lìa nghiệp giết hại, nếu không sẽ bị đọa lạc vào chỗ khốn cùng và chịu quả báo cực kỳ đau khổ vô số kiếp; hiện tại mạng đền mạng hoặc chịu khổ trong ngục tù tối tăm, trước mắt chẳng nói đâu xa là địa ngục trần gian, chỉ có người phạm tội và người quản lý mới biết hoặc khi ta được nghe kể lại, ai vào chỗ này mới thấy sự khổ ải của nó. Nếu biết nhìn bằng trí tuệ chúng ta sẽ thấy vô số địa ngục hiện tiền ngay trước mắt, cụ thể là các lò mổ súc sinh, các chợ cá thịt với cảnh giết chóc xảy ra mỗi ngày. Nếu biết xem xét ta sẽ thấy rõ địa ngục chẳng đâu xa, nói chi bên cạnh còn cả một thế giới vô hình với các loài quỷ đói khổ ải, vật vờ cả ngàn năm do nghiệp xấu chiêu cảm. Do đó, Phật dạy vì lòng từ bi nên trước khi dùng cơm chúng ta phải khởi tâm bố thí thức ăn thì loài quỷ đói mới thọ nhận được. Quả thật, cuộc sống của thế gian này rất khó tránh khỏi những lầm lỗi đáng tiếc, chỉ ít hay nhiều mà thôi. Người con Phật phải biết khôn ngoan lựa chọn nghề nghiệp và việc làm ít tổn hại đến các loài vật, khả dĩ cũng có tội nhưng vì nhẹ nên có thể sám hối, chỉ bệnh đau chút ít không sao. Nếu biết xa lìa nghiệp giết hại, chúng ta sẽ được 10 điều lợi ích sau:

_ Đời đời kiếp kiếp xa lìa sự bất an, sợ hãi, không bị sự hăm dọa hay khủng bố.

_ Tâm từ bi phát sinh, luôn sống trong an vui, hạnh phúc.

_ Các thói quen nóng giận, phiền muộn, bực tức, hờn mác không chi phối được chúng ta.

_ Thân thể ít bệnh tật hiểm nghèo, thường xuyên xa lìa các khổ nạn.

_ Sống thọ không chết yểu, tinh thần sáng suốt và không bị tai nạn bất ngờ.

_ Chư thiên cùng các thiện thần thường ủng hộ và bảo vệ chúng ta.

_ Thường xuyên xa lìa các ân oán thù hằn, dứt trừ oan gia nghiệp báo trả thù.

_ Đêm ngủ không nằm mơ thấy ác mộng, luôn thấy điềm tốt lành.

_ Thường xuyên gieo trồng phước đức nên tội chướng ngày càng thuyên giảm.

_ Sau khi chết được sinh Thiên, không còn bị đọa vào 3 đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Chúng sinh gồm chung các loài có tình thức nên đều biết buồn, thương, giận, ghét và đều ham sống sợ chết; do tạo nghiệp bất đồng nên có hình thù khác nhau, nhưng sự sống không khác. Khi bị giết hại thì oán hận sẽ ăn sâu vào tàng thức chính bản thân người bị giết, oán thù tăng lên chồng chất, ôm ấp trong lòng tích lũy lâu ngày và chờ dịp báo thù khi hội đủ nhân duyên. Vì vậy, ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, chúng ta xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống cho mọi người và muôn loài. Làm cha mẹ ta phải thường xuyên quan tâm đến con trẻ trong gia đình, khi thấy chúng vô tình hay cố ý giết hại các loài ong, kiến, bướm hoặc các con vật khác thì ta phải khuyên dạy không nên làm thế mà mang tội, một lúc nào đó sẽ bị trả quả theo luật nhân quả công bằng. Khi còn nhỏ mà đã quen tay giết hại thì lớn lên các em có thể giết người khi không làm chủ được bản thân. Thực tế, trên thế gian này thường xuyên xảy ra rất nhiều vụ án cướp của giết người quá dã man chỉ vì vài chục ngàn để có tiền chơi game hoặc một hai triệu bạc, nếu ai theo dõi báo chí hằng ngày đều biết đến.

HẠNG NGƯỜI TỪ TỐI VÀO SÁNG.

Hạng người này tuy đời trước tạo nhân xấu ác nên hiện tại sinh ra chỗ thấp kém, ty tiện; nhưng nhờ cố gắng học hỏi, thân cận thiện hữu tri thức mà được chỉ dạy những lỗi lầm quá khứ; do đó biết quyết tâm sám hối tội chướng, làm lại cuộc đời hướng về nẻo thiện, phát nguyện quy y Tam bảo, gìn giữ 5 điều đạo đức, luôn thân cận thầy lành bạn tốt, nguyện hứa chừa bỏ không tái phạm nghiệp nhân xấu ác và hay làm lành lánh dữ, thấp mình thưa hỏi đạo lý, học hỏi những điều hay lẽ phải, không nóng giận, phiền muộn, bực tức, bất mãn, hay hòa nhã, vui vẻ với mọi người; tuy hoàn cảnh đời sống còn gặp nhiều khó khăn nhưng lúc nào cũng phát tâm hoan hỷ cúng dường Tam bảo tùy theo khả năng của mình, sẵn sàng chia sẻ giúp đỡ khi gặp người bất hạnh, khó khăn.

Thời Phật còn tại thế, có hai vợ chồng hoàn cảnh rất khốn khó, gia tài sự nghiệp chỉ độc nhất vô nhị một chiếc y là phương tiện che thân. Nếu chồng đi làm thì vợ ở nhà mặc quần áo không khí, cuộc sống của họ cứ đắp đổi qua ngày như thế, không một ngày nào được áo ấm, cơm no. Ấn Độ là một đất nước nổi tiếng về tâm linh từ thời xa xưa, nhưng lại là một nước có chế độ phân biệt giai cấp và kỳ thị chủng tộc cao nhất thế giới, dẫn đến sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo quá xa, giàu thì không ai bằng, nghèo thì rớt mồng tơi. Nghèo đến độ không còn điều gì để gọi là nghèo nữa, nghèo đến nỗi không có đất để cắm dùi, nghèo xơ, nghèo xác. Tuy nhiên, dù nghèo nhưng hai vợ chồng nọ rất kính tin Tam bảo, vẫn sắp xếp thời gian thay phiên nhau đi nghe Pháp và về kể cho nhau nghe; nhờ vậy sau một thời gian, hai người đã thấm nhuần lời Phật dạy. Một hôm có vị tỳ kheo đi khất thực ngang nhà, hai vợ chồng thấy hình bóng chư Tăng liền phát khởi niềm tin kính Tam bảo. Với lòng thành kính tôn sư trọng đạo, cả hai đều muốn phát tâm cúng dường để mong hiện tại và đời sau thoát khỏi kiếp nghèo khốn khổ. Nhờ nguyện lực lớn lao đó đã kích động hai người phát tâm cúng dường bảo vật duy nhất là chiếc y để mặc mà kiếm ăn qua ngày. Tin này đến tai nhà vua như một tiếng sấm làm chấn động cả triều đình, các quan lại đều bàn tán xôn xao về việc làm cao cả của hai vợ chồng nọ. Nhà vua động lòng trắc ẩn trước nghĩa cử cao đẹp của hai người bèn cung cấp đất đai, vườn tược cùng tiền bạc, nhà cửa để hai người có điều kiện mà làm ăn sinh sống.

Thế gian này nếu ai cũng có những tấm lòng cao thượng như thế thì chắc chắn mọi người sẽ được cơm no áo ấm, xã hội khỏi phải bận tâm lo lắng về vấn đề người nghèo, bởi ai cũng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình để đóng góp giúp đỡ, chia sẻ nên cuộc đời sẽ hạnh phúc biết bao. Vị vua nọ đúng là một mẫu người nhân từ, đạo đức và kể từ đó ngài cũng quan tâm, giúp đỡ người nghèo khổ nhiều hơn. Gia đình kia nhờ tâm cung kính, chí thành cúng dường nên đã thay đổi được vận mệnh đen tối mà chuyển hóa được kiếp nghèo. Người bần cùng, khốn khổ khó có cơ hội vươn lên làm lại cuộc đời bởi họ luôn mặc cảm, tự ti, hay oán trời trách đất sao nỡ đành lòng đày đọa họ. Cuộc đời này sở dĩ có người giàu kẻ nghèo, người khôn kẻ dại đều có nguyên nhân sâu xa của nó, không có việc gì bỗng dưng khi không mà thành. Nghèo là do không biết bố thí cúng dường, giúp đỡ chia sẻ khi gặp người khó khăn, hoặc hay trộm cướp lường gạt của người khác. Người giàu dù có tiền muôn bạc vạn, nhà cao cửa rộng mà không dám giúp đỡ một ai, đến lúc ra đi cũng phải bỏ lại tất cả, chỉ mang theo nghiệp tốt và nghiệp xấu mà thôi.

Trong Phật pháp không đặt nặng giàu nghèo, giàu mà không giúp đỡ ai, chỉ bo bo như ông thần giữ của, ai khổ mặc ai; giàu như vậy có ích lợi gì? Nghèo mà rộng đường nhân nghĩa, dám đem những cái mình đang cần hằng ngày để chia sẻ cho người khác khi cần, đó mới thật là giàu, giàu lòng nhân ái, giàu cả tấm lòng. Có hai gia đình nọ là bà con hàng xóm và là bạn bè thân thiết với nhau. Một người thì thật là giàu, cái gì cũng có. Một người thì thật là nghèo, cái gì cũng không. Một hôm, người bạn nghèo sang nhà người giàu than thở số phận của mình sao quá nhọc nhằn, khổ sở, cuộc sống lúc nào cũng thiếu thốn, khó khăn. Chị nhà giàu liền nói, “bộ chị tưởng gia đình tôi sung sướng lắm sao! Từ khi giàu có đến giờ, tôi phải nhọc nhằn thức khuya dậy sớm chạy theo công việc đầu tắt mặt tối, không dám một ngày lơ lỏng, ăn không ngon, ngủ không yên, cứ nơm nớp lo sợ bị trộm cướp viếng thăm, lúc nào cũng sợ mất mát, thiệt thòi, khổ lắm chị ơi! Chị bạn nghèo nghe nói thế liền đáp, “nếu vậy thì chị chia bớt cho tôi đi, tôi thà chịu khổ một chút cũng không sao.” “Đâu được chị, bao nhiêu năm trời ròng rã cực khổ làm lụng vất vả, nhín ăn bớt mặc mới có được cơ nghiệp hôm nay”. Ta thấy, chị bạn tuy giàu nhưng lại tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt, có của cải thà để hư hao, mục nát, không dám đem ra san sẻ hay giúp đỡ cho ai. Giàu như thế đâu có lợi ích gì cho nhân loại.

Như có ông tỉ phú kia khi chết để lại một gia tài kết sù không có người thừa kế, cuối cùng tài sản bị sung vào công quỹ. Hằng ngày ông chỉ ăn cháo và cơm đạm bạc, mặc loại vải gai rẻ tiền, đi bằng loại xe cũ kỹ, trong khi gia tài có hơn 8 triệu đồng tiền vàng, chưa kể đất đai, ruộng vườn, nhà cửa. Khi còn sống ông làm việc quần quật suốt ngày không dám nghỉ ngơi, thấy người nghèo khổ đến xin miếng cơm, chén cháo sống qua ngày thì ông xua đuổi, “ráng làm lấy mà ăn, đồ hạng người làm biếng!” Cả đời ông chưa từng giúp một ai hay cho ai cái gì, thậm chí những người làm công trong nhà cũng không được no cơm, ấm áo.

Tuy nghèo nhưng biết nhân nghĩa, sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia với người khốn cùng để giúp họ qua cơn hoạn nạn, khó khăn. Nghèo như vậy cũng nên nghèo vì vẫn còn làm lợi ích thiết thực cho người khác. Chúng tôi cũng từng kể về câu chuyện chứng kiến trực tiếp trong cuốn “gieo trồng phước đức” về một gia đình người chồng bị chết trong cơn bão lũ, để lại 1 vợ cùng 6 đứa con thơ dại. Đứa lớn nhất chỉ mới 14 tuổi, cả gia đình đang ở nhà tạm để chờ cứu trợ trong cơn bão lũ, mặt mày đứa nào cũng đã xám xịt vì đói khát lâu ngày. Ấy thế mà khi nhận được phần quà không đáng là bao, người vợ loay hoay sớt ra làm hai phần rồi nhanh chân cầm phần kia đem đi đâu đó. Lát sau cô quay trở lại, cười nói, “gia đình con may mắn được đoàn cứu trợ giúp đỡ, song bên cạnh còn nhiều gia đình khó khăn hơn gia đình chúng con, họ cũng chịu cảnh đói rét, thiếu thốn nhiều ngày”. Tấm lòng cao thượng và sự hy sinh, chia sẻ của vị thí chủ ấy chỉ có các bậc Bồ Tát mới thực hiện được. Bản thân chúng tôi nhiều năm đi làm từ thiện mới thấy lần đầu có người thật sự nhân nghĩa, chan chứa tình yêu thương nhân loại bao la như thế. Nhìn lại việc làm của mình chẳng đáng là bao, chúng ta cần phải học tập và bắt chước hành động cao thượng từ người phụ nữ ấy. Miếng ăn mình cần để sống qua ngày mà dám dứt ruột để sẻ chia cho người khác. Điều này quả thật rất hiếm có trên đời!

Ngẫm lại việc này chúng tôi dặn lòng phải cố gắng hơn nữa để việc làm của hội ngày càng thêm phát triển, và càng thêm nhiều cá nhân tích cực hơn bằng cách mỗi tháng chỉ cần nhịn một hai bữa sáng để dành dụm giúp đỡ người khó khăn qua cơn hoạn nạn. “Kết nối yêu thương- Từ thiện duyên lành- Sẻ chia cuộc sống” là tâm nguyện của chúng tôi sau thời gian vấp ngã, được Phật pháp cứu vớt để làm lại cuộc đời.

HOA SEN TỪ BÙN DƠ                

Một chàng thanh niên thuộc giai cấp nô lệ hạ tiện, là giai cấp thấp nhất ở Ấn Độ, đang gánh phân đi trên con đường làng. Hôm đó đức Phật theo thứ lớp đi khất thực không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, Ngài bình đẳng đi hết xóm này đến làng khác và tình cờ gặp chàng gánh phân. Vì quá sợ sệt nên anh ta né qua đường khác nhưng trong lòng vẫn ao ước và tiếc nuối “biết đến bao giờ mình mới được như các Ngài”. Đang trong vòng suy nghĩ miên man, anh khựng hẳn người bởi trước mặt anh là một bóng hình từ ái, trang nghiêm với ánh hào quang rực rỡ. Anh hoảng hốt định quay đầu bỏ đi vì sợ bị bắt nhưng Phật từ bi cất tiếng, “này chàng trai trẻ, Như Lai đang tìm đến con đây!” Giọng nói ngọt ngào và êm ái của Người đã làm anh bừng tỉnh, anh bất giác bỏ đôi gánh xuống, quỳ lạy thưa rằng, “dạ kính bạch Ngài, con không dám thân cận quý Ngài vì con sợ làm ô uế dòng dõi tôn quý, xin Ngài đừng đến gần con”. Đức Phật nở một nụ cười chan chứa tình thương và ôn tồn nói, “này chàng trai trẻ, không ai có quyền bắt tội con đâu, con hãy yên tâm, chính Như Lai đang tìm đến con. Như lai bây giờ không còn là hoàng thái tử trong giai cấp vua chúa nắm quyền thống trị như ngày xưa, Như Lai muốn chia sẻ với con một chút tâm tình có được chăng?” “Nhưng con là hạng người cùng đinh thuộc giai cấp nô lệ, Ngài không sợ bị nhiễm bẩn hay sao?” “Giáo pháp của Như Lai không phân biệt giai cấp vì mọi người đều máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn.” “Dạ kính bạch Thế Tôn, chính các giáo sĩ Bà la môn thường nói chỉ có giai cấp của họ và các bậc vua quan mới là tôn quý, xứng đáng được ăn trên ngồi trước, thờ cúng đấng Phạm Thiên. Chúng con là giai cấp nô lệ hạ tiện, chỉ biết phục dịch một cách vô điều kiện cho họ mà thôi.” “Chính vì vậy mà ta phải bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con thơ để ra đi tìm chân lý sống cho kiếp người. Nay ta đã biết rõ sự thật, không có một đấng quyền năng nào ban phước giáng họa cho ai cả, Như Lai xác quyết và bảo đảm với con điều đó. Giờ thì con có muốn sống một đời sống mới, bình an và hạnh phúc hay không?” “Điều này xưa nay con hằng mong muốn, nếu được Như Lai cứu độ thì còn gì hạnh phúc cho bằng”. Thế là đức Phật nắm tay chàng trai trẻ ra bờ sông tắm rửa sạch sẽ và dẫn chàng về tịnh xá Kỳ Viên. Sau một thời gian xuất gia làm Tỳ kheo, vì siêng năng tinh tấn tu hành mà chàng đã chứng quả A la hán với lực dụng không thể nghĩ bàn.

Vua Ba tư nặc bấy lâu nghe nói giáo đoàn đức Phật toàn thế phát cho hạng cùng đinh thấp kém nên rất bực tức, bất bình với Phật. Nay ông lại nghe Phật vừa độ tên hạ tiện Ni đề nên thấy không còn tôn ti trật tự trong hệ thống phân chia giai cấp, ông bèn cùng đám tùy tùng đi đến tịnh xá để khuyên Người không nên tiếp tục độ kẻ cùng đinh. Vừa đến cổng tịnh xá, mọi người nhìn thấy một vị Tỳ kheo đang ngồi trên tảng đá lớn với dáng vẻ trang nghiêm, đường bệ. Vua liền nhờ thầy vào trình đức Phật có vua Ba tư nặc đến thăm. Sau khi nhận lời, vị Tỳ kheo biến mình qua tảng đá lớn và mất dạng, sau ngài cũng từ tảng đá ấy hiện hình trở lại làm cho vua và các quan cận thần nể sợ. Vị Tỳ kheo nói, “đức Thế Tôn đã hứa khả, xin mời đức vua và các quan tùy tùng vào”. Sau khi đảnh lễ đức Phật, vua Ba tư nặc ngồi sang một bên thưa rằng, “kính bạch đức Thế Tôn, vị Tỳ kheo vừa vào yết kiến ngài là ai mà có sức thần thông quảng đại, vị ấy xuyên qua tảng đá lớn một cách nhẹ nhàng như trò ảo thuật. Con muốn đảnh lễ và cúng dường vị Tỳ kheo ấy có được chăng?” “Nhưng mục đích đại vương đến đây để làm gì?” “Dạ, con muốn giáo đoàn của Ngài không nên thế phát và xuất gia cho những người thuộc giai cấp cùng đinh hạ tiện, vì như vậy sẽ làm ô uế dòng dõi tôn quý của chúng con.” “Này đại vương, nếu những người đó được xuất gia làm Tỳ kheo và vẫn giác ngộ, giải thoát, tu tập chứng quả Thánh thì bệ hạ tính sao?” “Con nghĩ chuyện đó không thể có được!” “Đại vương có tin lời ta nói không?” “Dạ, con tin.” “Vị Tỳ kheo có sức thần thông tự tại ngài gặp ngoài cổng chính là Ni đề, người gánh phân thành Xá vệ thuộc giai cấp nô lệ phục dịch, người mà Ta đã xuất gia hơn một tháng nay.” “Nếu quả thật như thế con xin phát tâm cúng dường Tứ sự cho vị Tỳ kheo ấy”.

Vua Ba tư nặc đến gặp Phật mục đích chính là không chấp nhận cho những người giai cấp hạ tiện, nô lệ vào Tăng đoàn tu tập, vì ngài nghĩ những người thuộc dòng dõi Bà la môn tôn quý xuất gia vô số còn không chứng quả, huống hồ là những con người hạ tiện, bần cùng này. “Này đại vương, giáo pháp của Ta vốn bình đẳng về sự giác ngộ và si mê, nếu ai chịu khó siêng năng tu tập và thực hành đúng theo Chánh pháp thì đều có khả năng chứng ngộ. Đại vương nên biết, từ bùn lầy hoa sen vươn lên và nở hoa thơm ngát, cũng vậy, ai cũng có khả năng giác ngộ giải thoát như nhau.” “Vậy mà xưa nay con cứ nghĩ chỉ có những người thuộc giai cấp tôn quý mới tu hành chứng được Thánh quả, vì con thường nghe những vị Bà la môn nói như thế. Nay nếu không nhờ Thế Tôn chỉ dạy và thấy rõ ràng sự thật kiếp người thì con chỉ biết đấng Phạm Thiên sanh ra họ là để phục vụ cho giai cấp tôn quý chúng con”.

Xã hội Ấn Độ trước khi đạo Phật ra đời đã có truyền thống giai cấp thống trị có quyền bóc lột giai cấp cùng đinh do đấng Phạm Thiên làm chủ tể. Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ đã tìm ra chân lý cho con người, Ngài thấy được tất cả chúng sinh đều có đức tánh sáng suốt có thể giác ngộ. Mọi người sinh ra vốn bình đẳng như nhau giữa sự si mê và giác ngộ; dù là giai cấp Bà la môn hay Thủ đà la thì khi gieo quả xấu ác ắt phải chịu quả khổ đau. Ai gieo trồng phước đức thì được hưởng quả lành, hạnh phúc hay đau khổ đều do mình tạo lấy. Tôn quý hay cùng đinh là do hành động của mỗi người trong hiện tại. Chính sự ra đời của đạo Phật đã mang lại bình đẳng cho con người.  

Hạng người từ tối vào sáng là hạng người đã nhận diện được lỗi lầm, từ đó cố gắng, can đảm, quyết tâm làm lại cuộc đời để vươn lên vượt qua số phận bất hạnh; như vậy, giàu hay nghèo không quan trọng, quan trọng hơn hết là mọi người phải có tấm lòng và tình yêu thương chân thật.

Nếu có người bần cùng

Biết tin sâu nhân quả

Ít nóng giận, buồn phiền

Thường xuyên biết hổ thẹn

Hay cúng dường giúp đỡ

Người tu hành chân chánh

Biết khiêm tốn học hỏi

Những điều hay lẽ phải

Luôn khuyên người bố thí

Khuyến khích và khen ngợi

Người cho lẫn người nhận

Người tu phước như thế

Từ đây đến đời sau

Luôn sanh các cõi lành

Đời đời hưởng phước báo

Từ tối vào nơi sáng

Là hạng người đáng kính.

PHÓNG SINH CỨU VẬT

Đạo Phật chủ trương không giết hại vì tôn trọng quyền bình đẳng của muôn loài nên không muốn làm đau khổ cho ai, ngoài ra còn khuyến khích mọi người hạn chế sự giết hại bằng cách phóng sinh, cứu người, cứu vật. Phóng sinh là vì lòng từ bi thương xót, không nỡ để chúng sinh đau khổ, chết chóc nên tìm cách ra tay cứu mạng. Cứu người hay cứu vật đều gọi chung là phóng sinh. Những người làm công tác cứu hộ con người trong các tai nạn đều gọi chung là phóng sinh. Chúng ta có thể xây chùa to Phật lớn, mở nhiều cơ sở giáo dục để phục vụ cho con người, nhưng “dù xây chín bậc phù đồ, chẳng bằng làm phúc cứu cho một người”; giúp một người hoạn nạn đang bị bế tắc hoặc gặp một sự trắc trở nào đó trong cơn nguy biến, khốn cùng chính là cách thức phóng sinh đối với con người.

Chúng ta có mặt trên cuộc đời đã từng bị luân hồi trong 6 đường lăn lên lộn xuống, thay hình đổi dạng, vô số kiếp ta từng làm người thân của nhau như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bà con quyến thuộc. Do đó, mọi người hãy nên thường xuyên chiêm nghiệm, quán chiếu tất cả chúng sinh là cha mẹ nhiều đời của mình, tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta; nhờ quán chiếu như vậy mà thói quen ham thích hưởng thụ mà giết hại nhiều đời sẽ dần được giảm bớt, tâm từ bi giúp người cứu vật sẽ ngày thêm tăng trưởng. Cuộc sống này ta khó tránh khỏi việc giết hại các loài chúng sinh dù là cố tình hay vô ý. Cho nên, phóng sinh giúp người cứu vật là việc làm thiết thực xuất phát từ tâm từ bi bao la, rộng lớn khi thấy con vật sắp bị hành hình hoặc đang đau khổ trong tuyệt vọng chờ chết như trường hợp chú sa di cứu đàn kiến nọ. Tất cả chúng sinh là chư Phật ở tương lai vì ai cũng có thể tánh bình đẳng, sáng suốt, nhưng do vô minh che lấp nên tạo nghiệp sai lầm mà bị đọa vào chỗ xấu ác. Trong kinh Phật nói, “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Nếu ta cố ý giết hại chúng sinh thì chẳng khác nào hại một vị Phật ở tương lai, vô tình làm mất hạt giống Bồ Đề và thui chột tâm từ bi cao cả.

Ngày xưa, các tỉnh miền Trung thường xuyên xảy ra thiên tai, lũ lụt, người dân phải sống trong cảnh màng trời chiếu đất, cơm không đủ no, áo không đủ mặc, chiến tranh loạn lạc, trộm cướp lộng hành. Một cư sĩ nọ rất kính tin Tam bảo nên hết lòng trì trai giữ giới, hằng ngày luôn sám hối, tụng kinh, lễ Phật; thấy cảnh tang thương mất mát, dân tình khốn khổ nên đêm ngày thành tâm cầu nguyện để mọi người vượt qua nỗi khổ. Do tâm thành khẩn chí thành mà một hôm anh nằm mộng thấy một Thiền sư hiện ra chỉ bảo, “muốn không bị thiên tai, bão lũ và nạn đầu trộm đuôi cướp hoành hành thì chỉ có một cách duy nhất là khuyên mọi người giữ giới không giết hại và thực hành hạnh phóng sinh giúp người, cứu vật; làm được như vậy thì mọi chuyện sẽ tai qua nạn khỏi”. Vậy mà có một số người lại cho rằng trời sinh ra vạn vật để phục vụ con người và cúng tế thần linh. Ai theo truyền thống này sẽ mang ơn thượng đế. Thảm họa chiến tranh, binh đao, sóng thần, động đất, lũ lụt, dịch bệnh… sở dĩ tới ngày nay vẫn còn tồn tại là do ảnh hưởng nhiều đời, nhiều kiếp của nạn tương tàn, tương sát, giết hại lẫn nhau và ăn thịt chúng sinh. Do nạn giết hại đó mà chúng sinh khi bị giết đau khổ vô cùng, sanh tâm oán hận, thù hằn ăn sâu vào tàng thức, khi có cơ hội sẽ tìm cách trả thù.

Nếu ai cũng ý thức giữ giới không giết hại thì thế gian này mọi người sẽ sống an vui, hạnh phúc, không còn phải bất an, lo sợ. Nếu vì sự sống để nuôi thân này mà chúng ta phải giết hại, nhất là những người sống ở vùng ven sông, ven biển phải làm nghề đánh bắt các loài thủy sản để nuôi sống bản thân và gia đình; khi làm việc ấy chúng ta phải có tâm hổ thẹn và từ bi, không nên đánh bắt những lọai thủy sản quá nhỏ vì như thế sẽ vi phạm pháp luật đánh bắt. Luật pháp nhà nước còn không cho phép, huống hồ là luật nhân quả luôn âm thầm chi phối, dù trăm kiếp ngàn đời nhân đã tạo ra thì không bao giờ mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện. Cho nên, mọi người hãy nên thận trọng trong nghề nghiệp mưu sinh. Nếu hoàn cảnh và sự sống bắt buộc chúng ta phải hành nghề như thế thì ta phải có lương tâm, loài nào được bắt và loài nào không được bắt, khả dĩ vẫn có tội nhưng tội sẽ nhẹ hơn. Người Phật tử tại gia chủ yếu là giữ giới không được giết người, các loài vật từ lớn đến nhỏ mình hạn chế được bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu, khi duyên đã đủ thì ta có thể dừng hẳn nghiệp giết hại.

HẠNG NGƯỜI TỪ SÁNG VÀO TỐI

Truyền thống xa xưa cho rằng có một linh hồn bất tử, tức là hồn sáng, nên một số người lầm chấp người chết sanh cõi người, trời chết sanh cõi trời, thú vật chết sanh thú vật, ai nằm trong hoàn cảnh nào thì phải chịu như thế từ đời này qua kiếp nọ, không thể nào thay đổi được. Nếu thật sự có một linh hồn bất tử thì mọi người tu không được lợi lạc gì bởi nó bất di bất dịch, ta cố gắng tu thế nào cũng không tiến bộ được. Đạo Phật không thừa nhận có một linh hồn cố định mà cho rằng có một tâm thức chuyển biến liên tục trong từng phút giây, nhờ sự chuyển biến và đổi thay đó mà chúng ta có khả năng tu tập để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. “Thức” là cái hay suy tư, nghĩ tưởng, biết phân biệt. Cái biết phân biệt là một dòng chuyển biến không dừng, khi nhỏ thì cái biết phân biệt theo trẻ con. Lúc lớn lên thì cái biết phân biệt theo người lớn có phần chín chắn hơn. Do đó, tâm thức con người luôn biến đổi không dừng nghỉ; còn linh hồn thì cố định, nên có học cũng không giỏi, không học cũng chẳng ngu; nhưng thực tế có phải vậy không? Bản thân chúng tôi trước kia do hiểu biết sai lầm cho rằng chết là hết, không có nhân quả tội phước nên nói năng, suy nghĩ, hành động ngu si, luôn làm những điều xấu ác hại mình, hại người. Nếu nói cái gì cũng cố định cả thì tôi đã rũ xương trong lao tù nghiện ngập.

Hạng người thứ ba là hạng người có phước đức, do nhiều đời trước biết gieo trồng nhân tốt lành nên đời này có quyền thế, địa vị cao trong xã hội, có nhiều tiền của, nhiều tôi tớ trong nhà; nhưng do ỷ lại cái gì cũng cố định, trước sau như một không thể nào thay đổi mà mặc tình phung phí, xa hoa, ăn chơi trác táng, làm những điều phi pháp, bóc lột tôi tớ, thợ thuyền thậm tệ, hại người, hại vật, cuối cùng phước hết họa đến nên phải chịu quả khổ đau như người từ sáng vào tối.

Thời Phật còn tại thế có một người Bà la môn rất giàu có thuộc giai cấp tôn quý, nhưng vì hiểu biết sai lầm và nông cạn nên lúc sinh tiền mặc tình bóc lột tôi tớ, tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, chuyên làm những điều xấu ác. Đó là cha của trưởng giả Đế đô. Vì vô thường chẳng hẹn cùng người nên ông ra đi một cách đột ngột, không kịp trăn trối số vàng được chôn cất cho đứa con trai duy nhất biết, chính sự luyến tiếc đó làm ông tái sanh trở lại làm loài chó giữ của. Cũng như thường lệ, Phật bình đẳng theo thứ tự đi khất thực và vô tình đi ngang nhà trưởng giả Đế đô, một gia đình giàu có nhất làng ấy. Con chó thấy Phật chạy ra sủa dữ dội, trông nó hung ác như muốn ăn tươi nuốt sống Ngài. Nó gầm gừ nhảy chồm lên hàng rào, Phật biết được nhân duyên nên dùng tâm từ để chuyển hóa nó. Sau khi được Phật nhiếp phục, con chó trở nên nhu thuận rồi quay vào nhà nằm ỳ một chỗ trông rất buồn thảm. Chủ nhà đi về thấy chó không vẫy đuôi mừng mà nằm thừ ra liền hỏi tôi tớ trong nhà con chó vì sao như thế. Mọi người đều thuật lại nguyên nhân cho ông chủ nghe. Tức quá, ông ta chạy đi tìm Phật, “tại sao Ngài dám quở con chó của tôi để nó rầu rĩ nằm lỳ một chỗ?” “Này nhà Bà la môn thông thái, ta thương tiếc cho con chó nhà ông, chỉ vì ngu si mê muội mà phải ra nông nỗi này.” “Chó của tôi thì mắc mớ gì đến Ngài?” “Ông tin lời ta nói hay không, nếu tin thì ta sẽ nói nhân duyên của con chó này cho ông nghe.” “Tôi nghe, Ngài cứ nói đi!” “Con chó này là cha của ông khi trước, có phải cha ông qua đời đã hơn một năm nay?” “Đúng rồi, tại sao Ngài biết?” “Vì muốn giúp cha ông chuyển hóa kiếp ngu si lầm lạc nên ta mới tạo điều kiện để gieo duyên lành với gia đình nhà ông. Nếu ông tin ta thì hãy về nhà đào thử dưới chân giường ngay chỗ con chó nằm sẽ tìm được một hủ vàng rất lớn. Khi còn hiện tiền cha ông sợ mọi người biết được hủ vàng nên đã chôn dấu ở chân giường, trong cơn bệnh ngặt nghèo vì vô thường đến quá nhanh mà ông ra đi không kịp lời trăn trối, bởi tiếc nuối tài sản nên phải đọa làm chó trong nhà để giữ của cho ông”. Tuy nghe nói vậy nhưng trưởng giả Đế đô vẫn nghi ngờ vì ông nghĩ việc này chưa từng nghe các thầy Bà la môn nói. Ông cho gia nhân đào thử xuống hơn khoảng nửa thước thì đụng phải hũ vàng. Con chó nằm ngay bên cạnh chứng kiến tận mắt nên nó mãn nguyện, ve vẫy đuôi mừng rỡ, chiều ngày hôm đó nó âm thầm ra đi và được tái sanh về cõi trời, sau về báo mộng cho con trai biết nhờ Phật tế độ mà ông thoát kiếp súc sinh mê muội. Trưởng giả Đế đô sau khi chôn cất con chó xong liền cùng gia đình đến tịnh xá phát nguyện quy y Phật và gìn giữ 5 điều đạo đức. Vì kính tin Tam bảo nên ông thường xuyên cúng dường trai Tăng và luôn giúp đỡ những người bất hạnh, nghèo khổ, khó khăn. Xưa ông chỉ tin có đấng Phạm Thiên là trên hết nên nghĩ giai cấp Bà la môn được quyền ăn trên ngồi trước, buộc các giai cấp nô lệ phục dịch vô điều kiện; nhờ gặp Phật ông mới biết được không ai có quyền ban phước giáng họa, không có sự sắp đặt cố định của đấng thần linh mà chỉ có hành động do thân-miệng-ý tạo ra tốt hay xấu mà cho ra kết quả trong hiện tại.

Chúng ta thường lầm chấp cái gì cũng cố định nên vô tình dẫn đến sống liều, người nghèo cùng chẳng thèm phấn đấu vươn lên làm lại cuộc đời vì nghĩ mình có cố gắng cũng vẫn nghèo, đành chấp nhận số phận hẩm hiu, do đó người nghèo lại càng nghèo thêm. Người giàu có thì sinh tâm ỷ lại, mặc tình thỏa sức ăn chơi trác táng, hưởng thụ, bóc lột, vơ vét của người khác; đến khi phước hết họa đến thì chịu cảnh tán gia bại sản, tan nhà nát cửa. Câu chuyện trên đã cho ta một kinh nghiệm sống ở đời. Cha của Đế đô do quan niệm có một đấng tối cao ban phước giáng họa, ông thuộc giai cấp ăn trên ngồi trước có người phục vụ, nô lệ nên mặc tình vơ vét, bóc lột tôi tớ làm công vì nghĩ quyền này được thượng đế ban ân. Đó là một sai lầm đáng tiếc và sai lầm thứ hai là sự luyến tiếc, bám víu vào tài sản, vật chất nên không được tái sanh chỗ tốt lành mà phải đọa làm chó để giữ của trong nhà. Ông không hề biết đời nay giàu sang danh vọng, quyền cao chức trọng, nhiều của cải, tôi tớ là do nhiều đời biết gieo trồng phước đức, tích lũy phước báo nên nay mới được vậy; vì tâm ỷ lại và tham lam, ích kỷ mà bị đọa lạc vào kiếp súc sanh, nhờ Phật tế độ nên chuyển được tâm mê lầm chấp trước và được sinh cõi trời. Con ông nhờ vậy mới trở thành một Phật tử chân chính luôn hết lòng hộ trì Tam Bảo và giúp đỡ người nghèo cùng, khốn khổ.

Xã hội ngày xưa với thiên hình vạn trạng bị thu nhỏ lại bởi nhiều phong tục tập quán có thể làm chết người trong thiên hạ. Đa số đều theo hệ thống thần quyền có vị chủ tể sắp đặt tất cả, có những tập tục cúng tế thần linh bằng con người và vô số các loài vật khác. Ai theo truyền thống này sẽ cám ơn thượng đế vì đã ban ơn cho họ. Xã hội ngày nay do biết áp dụng khoa học thực tiễn, tận dụng nguồn thiên nhiên sẵn có để đáp ứng nhu cầu vật chất cho con người nên dễ làm sinh thái toàn cầu bị xáo trộn, ảnh hưởng nặng nề gây ô nhiễm môi trường. Nếu chúng ta thiếu hiểu biết thì chính mình làm ảnh hưởng xấu và có thể gây thiệt hại cho nhau. Như gia đình kia nhà ở miền tây có một vợ hai con, chồng làm giám đốc một công ty lớn ở TP.HCM, cuộc sống đầy đủ, con cái học hành tới nơi tới chốn, bà con hàng xóm ai cũng khen nức nở, thậm chí có người thầm ghen tỵ cuộc sống an vui, hạnh phúc của họ. Thời gian trôi qua người chồng càng thêm thành đạt và bắt đầu giở thói trăng hoa, lăng nhăng cùng cô bồ nhí chỉ ngang tuổi con mình. Ngày xưa ông thường về nhà chăm sóc vợ con tận tình, chu đáo, nay hay viện cớ công việc bộn bề nên ít khi về, còn mua riêng một căn hộ khang trang cho mình và người đẹp chung sống, cấp dưỡng đầy đủ cho gia đình cô ấy. Những tưởng hạnh phúc sao dễ dàng đến thế, họ đâu thể ngờ giông bão đang bất ngờ kéo đến. Người vợ sanh nghi và cuối cùng phát giác chồng mình có bồ, bà khôn khéo sắp xếp ổn thỏa với cô bồ nhí để giữ danh dự cho chồng. Tuy nhiên, lòng tham con người vốn dĩ vô bờ bến, cô bồ nhỏ dù nhận số tiền lớn vẫn không thỏa mãn vì nghĩ mình trẻ đẹp thì dại gì an phận, cô liền tương kế tựu kế, lấy gậy ông đập lưng ông, dùng số tiền đó mướn xã hội đen thủ tiêu bà vợ lớn. Cô đâu thể ngờ bọn xã hội đen cao cơ hơn, thay vì thủ tiêu chúng lại thỏa thuận để ăn thêm tiền của cô vợ lớn. Biết được âm mưu thâm độc của cô bồ nhí, lòng bà vợ lớn sôi lên sùng sục, vì ức quá bà mướn xã hội đen cắt nhượng hai tay, hai chân để cô phải chịu thân tàn ma dại. Vậy là vụ án kết cuộc thật bi thảm. Cô bồ nhỏ bị cắt nhượng tay chân phải đưa vào bệnh viện cấp cứu, ông giám đốc biết được sự tình không đủ can đảm sống khi nghe hung tin nên nhảy lầu tự tử. Cô bồ nhí chết vì không cứu nỗi do vết thương quá nặng, bà vợ lớn bị bắt giam và lãnh án chung thân, ông chồng ngủm cù đèo, hai đứa con một đứa đã ra trường, một đứa sắp tốt nghiệp hay tin sốc nặng nên lao vào rượu chè, hút chích; sau một thời gian bán sạch hết nhà cửa, thân tàn ma dại, một đứa cuối cùng chết vì xốc thuốc, đứa còn lại bị đưa vào trung tâm cai nghiện.

Vì đam mê chốc lác mà thảm họa ngàn năm giáng xuống gia đình làm tan nhà nát cửa. Sự nghiệp bao năm chắt chiu gầy dựng, một thoáng đam mê mà ôm hận cả đời. Sự thật là như thế, tình đời lắm nỗi chua cay, một chút sa đà mà thành ra nông nỗi. Đây là bài học thiết thực trong cuộc sống, ai hiện tại nghĩ mình là giai cấp tôn quý đang có địa vị, quyền thế trong tay thì nên suy ngẫm lại, đừng một bề cố chấp cho rằng mình được đấng tạo hóa ban ân sủng mà vô tình lún sâu trong tội lỗi. Khi phước hết họa đến thì gia đình, sự nghiệp bỗng chốc tan thành mây khói, để lại đau thương cùng tiếng đời bêu rếu không thôi. Từ ngàn xưa đến nay bao nhiêu anh hùng tài ba lỗi lạc, các vua chúa thời phong kiến dù không chết ngoài chiến trường cũng đa số chết dưới lỗ chân trâu. Oái oăm thay, tiếng sét ái tình đã làm con người mê mẫn, tê dại tâm hồn. Vua thì nhiều cung phi mỹ nữ, trai thì năm thê bẩy thiếp, ấy thế mà khó qua khỏi chút dặm cỏ sương bởi một số người lầm tưởng thượng đế đã ban cho mình cái quyền ăn trên ngồi trước, vua vì cho mình là con Thiên tử nên được quyền sanh sát trong tay. Tình đời thế cuộc rồi cũng trắng tay, khi chết đi chỉ mang theo vạn khối sầu. Ai nặng tính dục, ham hưởng thụ nhiều hãy nên suy ngẫm lại!

Một thoáng đam mê nhiều kiếp khổ

Đôi lời tâm sự chút đệ huynh

Mong rằng thông cảm đời vô sự

Chất chứa làm chi vạn nẻo sầu.

Đời nay giàu sang phú quý, công thành danh toại là do nhiều đời đã gieo trồng phước đức. Không có gì bỗng dưng không mà có.

Nhiều đời tích lũy mới lên hương,

Sự nghiệp chắc chiu dài năm tháng,

Một chút si mê phải ngậm ngùi,

Nhà tan cửa nát, còn đâu nữa.

HẠNG NGƯỜI TỪ SÁNG VÀO SÁNG

Đây là hạng người nhiều đời đã gieo trồng phước đức, lại biết học hỏi, tu tập, làm lành lánh dữ, tin sâu nhân quả và đã thuần thục nghiệp thiện nên đời đời kiếp kiếp phát tâm Bồ tát đi vào đời cứu độ chúng sinh.

Thời Phật còn tại thế, bên cư sĩ nam có đại phú gia Cấp cô độc chuyên tâm cung kính cúng dường Tam bảo, giúp giáo đoàn phát triển nhanh chóng và lan rộng cho đến ngày nay. Ngoài việc cung kính cúng dường, ngài thường xuyên quan tâm, lo lắng và giúp đỡ những người bất hạnh nên được người đời ban tặng danh hiệu Cấp cô độc. Bên cạnh đó còn có nữ cư sĩ đại phú gia Tỳ xá khư, người phụ nữ tuyệt vời đẹp cả nhan sắc và đức hạnh. Vô số kiếp quá khứ bà đã từng gieo trồng phước đức và phát thiện tâm đời đời, kiếp kiếp cung kính cúng dường những bậc tu hành chân chánh, luôn giúp đỡ chia sẻ khi gặp người bất hạnh. Do phước báo những việc làm tốt đẹp mà đời nào sanh ra bà cũng là một nữ nhân cao quý, không ai có thể bắt nạt dù phải sinh trong thể chế giai cấp trọng nam khinh nữ. Bà có được 5 sức mạnh của phái đẹp mà bất kỳ ai cũng không thể có được. Đó là một nhan sắc tuyệt trần, tài sản thọ dụng không bao giờ hết, có nhiều bà con quyến thuộc, có nhiều con trai và có giới đức trong sạch. Theo quan niệm xưa, phụ nữ được coi là phái yếu được đấng tối cao sinh ra để phục vụ đàn ông, có nhiệm vụ sinh đẻ và nuôi dạy con cái trong nhà. Có lẽ phụ nữ chân yếu tay mềm và nhiều tình cảm nên phải nương tựa đàn ông, được phái mạnh yêu thương, che chở và bảo vệ. Ngày nay, ta không thể gọi phụ nữ là phái yếu nữa mà phải gọi là phái đẹp vì họ chẳng yếu chút nào, nhất là những phụ nữ có sắc đẹp, tiền bạc, bà con, con trai và có giới hạnh đầy đủ, tuyệt vời. Nhờ biết vận dụng và phát huy hết tài năng của mình, phái đẹp luôn làm đàn ông phải “đổ nước nghiêng thành”. Đẹp đẽ và tài năng luôn làm phụ nữ thăng tiến một cách nhanh chóng và được nhiều người mến mộ. Đó là một sức mạnh làm nhiều cánh đàn ông đắm đuối, mê say mà không thể nào làm tổn hại thanh danh.

Sự giàu sang phú quý cũng làm tăng thêm sức mạnh của phụ nữ, bởi mãnh lực của đồng tiền có thể sai khiến nhiều người theo ý mình. Ở điểm này phụ nữ có thể hơn đàn ông, ngoài tiền bạc và thế lực họ còn lo tròn việc nuôi dạy con cái, đây quả là việc khó làm. Song, vào thời Phật hiện hành, phụ nữ bị coi là món hàng để phục vụ đàn ông, họ bị coi rẽ, khinh chê, nhưng nàng Tỳ xá khư đã vượt qua rào cản đó mà khiến gia đình chồng phải tâm phục, khẩu phục. Bà có đông đảo bà con quyến thuộc, ai cũng kính mến, tôn trọng và thường xuyên bảo vệ, ủng hộ bà. Bà có cả con trai để kế thừa tông đường theo quan niệm khi xưa. Người phụ nữ có sắc đẹp và làm được nhiều lợi ích lớn lao so ra hơn đàn ông nhiều vì còn phải có trách nhiệm, bổn phận cuả thiên chức làm mẹ và nuôi dạy con cái. Tuy nhiên, cao quý hơn hết là sức mạnh của đức hạnh, đó là thước đo hoàn mỹ nhất của phái đẹp, nhất là người nữ sống trong thời đại phong kiến trọng nam khinh nữ. Chính đức hạnh và nhân cách cao thượng của họ đã làm xã hội chấp nhận mọi người được tôn trọng bình đẳng như nhau. Mặc dù vậy, đức hạnh không thể bình thường mà dễ dàng đạt được, nó luôn đòi hỏi ta phải gắng công tu tập, rèn luyện và nỗ lực một cách tinh cần. Người phụ nữ ngoài công-dung-ngôn-hạnh cần phải phát nguyện gìn giữ 5 điều đạo đức: Không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối hại người, không cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập ma túy. Đó là nền tảng căn bản giúp người phụ nữ vượt qua rào cản trọng nam khinh nữ.

Đã là phụ nữ thì phải đẹp và có đức hạnh, điều này làm cho giá trị phái đẹp càng được tôn trọng và yêu thương hơn. Xưa nay ông bà ta thường nói, “cái nết đánh chết cái đẹp”. Người phụ nữ, nhất là các cư sĩ Phật tử cần biết 4 sức mạnh nhan sắc, tiền bạc, quyến thuộc và con trai không bền vững mà chỉ tạo nên hạnh phúc, sung mãn vật chất nhất thời chứ không đem đến hạnh phúc lâu dài trong hiện tại và tương lai. Chỉ có sức mạnh về giới hạnh mới đem lại hạnh phúc lâu dài cho người phụ nữ. Bà Tỳ xá khư là một phụ nữ có sức mạnh về vật chất lẫn tâm linh nên đã chuyển hóa được chồng cùng quyến thuộc, mở ra trang sử mới về sự bình đẳng giữa nam và nữ. Từ nhỏ bà đã có phong cách tuyệt vời của một người nữ tài ba xuất chúng về mọi phương diện. Khi còn là một cô gái độ mười lăm mười sáu tuổi, nàng cùng các hầu gái định đến một bờ sông để tắm thì bất thần mưa to, các cô ai nấy đều nhanh chân chạy thục vào nhà, riêng mình nàng vẫn bình thản, ung dung bước đi, mặc cho mưa làm ướt hết quần áo. Lúc này, những người Bà la môn đang vâng lệnh một đại phú gia giàu có nhất nhì trong nước tìm một người nữ lý tưởng làm dâu. Về phước tướng nàng đã có được năm vẻ đẹp quý phái của người nữ, nhưng các ngài vẫn thắc mắc không hiểu sao trời mưa mà nàng vẫn thản nhiên không chạy đi như thế. Nàng nói, “tôi là một phụ nữ, nếu chạy nhanh sẽ mất đi vẻ đẹp của phái nữ, bị người đời chê trách thô tháo như đàn ông, không có đầy đủ công-dung-ngôn-hạnh”. Quả thật, nàng đúng là một phụ nữ lý tưởng trên cả tuyệt vời. Các Bà la môn yêu cầu nàng dẫn về nhà và trình bày mục đích của mình với gia đình, mong tìm được người phụ nữ toàn mỹ để cưới vợ cho con trai một đại phú gia giàu có. Cha nàng sau khi hỏi ý con gái liền vui vẻ chấp nhận. Thế là nhà chồng sắp đặt lễ cưới và cho người làm lễ rước dâu chỉ vài ngày sau đó, một đám cưới lớn chưa từng có trước đây. Cha mẹ nàng cho nhiều ngọc ngà, châu báu, vàng bạc không thể tính đếm hết cùng tất cả người hầu kẻ hạ. Gia đình chồng mời 500 đạo sĩ tu phái khổ hạnh ép xác và lõa thể đến cúng dường mừng cho ngày thành hôn của đôi trẻ. Vâng lời cha chồng, cô đến cúng dường các đạo sĩ lõa thể và thấy bất bình nên bỏ về phòng riêng. Họ lên tiếng chê trách gia đình chồng sao không biết tìm một con dâu hiền thục, trên thế gian bộ hết phụ nữ rồi sao mà lại đi cưới một cô gái xúi quẩy vậy làm mất danh giá gia đình. Bị sự chê trách của các đạo sĩ, cha chồng cô không được hài lòng lắm nhưng chưa có cớ gì để nói tội đứa con dâu mới cưới.

Một hôm, ông đang ăn món cháo cao cấp với mật ong đựng trong đĩa bằng vàng, có một Tỳ kheo vào nhà khất thực nhưng ông giả bộ ngó lơ. Thấy vậy, cô đứng kế bên lên tiếng, “xin thầy đi đến nhà khác vì cha chồng con đang ăn món cháo cũ, không tiện cúng dường”. Ông nghe nói vậy tức quá liền đuổi cô ra khỏi nhà. Lúc đó, cô thưa, “con phạm lỗi gì mà phải bị trục xuất ra khỏi nhà, con không phải là cô gái lăng loàn, mất nết đến nỗi phải bị cha đuổi mà không có lý do chánh đáng. Trước khi về nhà chồng cha con có giao 8 gia chủ cùng theo bảo hộ, nếu con có lỗi lầm thật sự, xin cha cho mời 8 gia chủ đến đây để phân xử một cách công bình”. Tám gia chủ được mời đến và vị cha chồng bắt đầu kể tội, “thứ nhất, tôi đang ăn món cháo thượng vị mà nó nói tôi đang ăn cháo cũ, làm mất danh dự, phẩm giá gia đình tôi, nó dám phỉ báng tôi trước mặt Tỳ kheo ấy. Thứ hai, nửa đêm nó đi ra sau nhà cùng các tớ gái, tớ trai để làm gì?”. Cô ôn tồn giải thích, “vì con ngựa giống mới đẻ nên con ra sau kiểm tra mọi người chăm sóc ra sao. Do thấy cha chồng không muốn cúng dường vị Tỳ kheo ấy nên con mới nói cha ăn cháo cũ, ý chỉ cha đang hưởng dần phước cũ đã gieo mà không muốn tạo thêm phước mới, sau cũng vì con không muốn phạm lời vọng ngữ nên mới nói như vậy”. Tám vị gia chủ đều nói, “nếu vậy tín chủ của chúng tôi đã nói gì sai? Hai lý do trên đều hợp lý, vậy con dâu ông có lỗi gì?” Không bắt bẻ được hai lỗi ấy, ông già chồng xoay ý kiến về buổi đầu trước khi nàng lên xe hoa mới nói mẹ nàng đã từng dạy dỗ con phải thường xuyên mặc đồ đẹp, ăn đồ ngon và soi gương hằng ngày, nhưng nàng không tuân theo. “Dạ thưa cha, mẹ con dặn phải mặc đồ đẹp là hằng ngày con phải giữ gìn quần áo sạch sẽ để tiếp khách quý của cha; phải ăn ngon là con phải ăn sau, khi đói mới ăn và không kén thức ăn ngon dở; hằng ngày soi gương ý mẹ con nói mỗi ngày cần phải dậy sớm dọn dẹp nhà cửa ngăn nắp, sạch sẽ và ngủ sau tất cả mọi người”. Tám gia chủ sau khi nghe nàng trình bày mới quay sang hỏi, “vậy con dâu ông có lỗi lầm gì mà ông đuổi đi?” Kể từ đó, ông thêm nể phục và quý mến cô nhiều hơn và coi nàng như vị cứu tinh của đời mình.

Trong vai trò, bổn phận làm vợ, làm dâu, có lẽ đẹp nhất và dễ thương nhất là nàng dâu khi mới về nhà chồng, hiếm khi các nàng giữ được sự hiền thục lâu dài, riêng bà Tỳ xá khư không những giữ được nét đẹp hiền thục ấy mà còn làm cho cả gia đình chồng thêm mến mộ, quý kính. Cuộc đời của bà là tấm gương sáng chói về công dung ngôn hạnh, xứng đáng cho hàng tín nữ thời hiện đại chúng ta bắt chước noi theo. Bà là người phụ nữ đầu tiên có công thỉnh Phật cho hàng cư sĩ tại gia được thọ trì Bát quan trai, tu tập hạnh xuất gia một ngày một đêm tại chùa để gieo chủng duyên lành với Tam bảo. Trước khi lên xe hoa về nhà chồng, bà được cha mẹ ruột tặng chiếc áo choàng trị giá gần trăm triệu tiền vàng, một hôm đi nghe Pháp tại tịnh xá Kỳ viên, bà nhờ tỳ nữ giữ dùm chiếc áo ấy và cô ta sơ ý bỏ quên trong tịnh xá. Với tấm lòng từ bi, bao dung và tha thứ, bà không rày la tỳ nữ mà chỉ nhờ cô đến tịnh xá hỏi thăm quý thầy có giữ dùm hay không. Ngài A nan biết áo của bà bỏ quên nên đã cất giữ và trao trả lại cho bà. Riêng bà thầm nghĩ nhân dịp này bà sẽ bán nó để xây dựng Tăng xá cho chư Tăng ni có chỗ nghỉ ngơi, tu học; nhưng vì chiếc áo quá đắc nên không ai mua nổi, bà tự nguyện mua lại và lấy tiền đó để xây dựng Tăng xá cho Tăng đoàn.

Ngoài việc sắp xếp chu toàn mọi việc trong gia đình và phục vụ, đóng góp lợi ích cho nhà chồng bà còn là một người con dâu mẫu mực, quán xuyến, quản lý tốt đẹp tất cả. Bà đã thuyết phục gia đình chồng tín kính Tam bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho bà thường xuyên cúng dường Tứ sự và không quên giúp đỡ những người bất hạnh. Một hôm, bà cùng người thân cúng dường trai Tăng, cô tỳ nữ vô tình làm bể chén kiểu quý, ngài Xá Lợi Phất sợ bà đánh đuổi cô nên khuyên nhủ bằng bài Pháp vô thường. Lúc này bà mới nói rõ một sự thật rất đau lòng, trong lúc bà đang cung kính cúng dường chư Tăng, các con của bà đều bị giết hại vì bọn nịnh thần tâu dối. Vậy mà bà vẫn an nhiên, tự tại lo tròn buổi lễ cúng dường như không có chuyện gì xảy ra, nói chi đến những cái chén vô tri, vô giác. Bà quả là một phụ nữ Phật tử tuyệt vời nhất trong lịch sử nhân loại, xứng đáng cho hàng phụ nữ ngày nay phải khiêm tốn khép mình học hỏi.

Trong thời phong kiến, tập tục trọng nam khinh nữ đã làm cho người đàn bà phải chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ vì đấng thượng đế đã ghán cho họ theo quan niệm khi xưa. Bà đã làm một cuộc cách mạng gieo tiếng chuông tỉnh thức và bình đẳng giữa con người với nhau. Bà là người phụ nữ mẫu mực và thành công trên đường đời, là một người vợ lý tưởng vuông tròn mọi việc trong gia đình. Bà khéo léo quán xuyến, điều hành và quản lý nhân sự từ tôi tớ cho đến nhân công, được cha chồng tán thán, khen ngợi. Phụ nữ thời đó thường bị xem thường, khinh khi nhưng bà đã vượt qua mọi rào cản. Về mặt đạo đức tâm linh bà là một Phật tử thuần thành luôn gìn giữ 5 điều đạo đức và thường xuyên thọ trì Bát quan trai giới. Bà lúc nào cũng cung kính cúng dường Tam bảo, cúng dường Tứ sự cho chư Tăng và luôn chia sẻ, giúp đỡ người bất hạnh, khốn khó.

Bà là người phụ nữ tuyệt vời có một không hai trong lịch sử nhân loại, là một Phật tử thuần thành có niềm tin sâu với Tam bảo và là tấm gương sáng chói cho hàng phụ nữ noi theo với những việc làm không thể nghĩ bàn. Bà đã và đang thực hiện 8 nguyện vọng chân chánh giúp cho Phật pháp được lan rộng đến bây giờ.

_ Một là được cúng dường áo mưa cho Thế tôn và chúng Tăng trong mùa mưa.

_ Hai là được cúng dường Tứ sự các Tỳ kheo mới gia nhập Tăng đoàn.

_ Ba là được cúng dường thức ăn và tiền cho các Tỳ kheo du phương hành cước.

_ Bốn là được cúng dường các Tỳ kheo bệnh thuốc thang đầy đủ.

_ Năm là được cúng dường thức ăn thích hợp cho các Tỳ kheo bệnh.

_ Sáu là được cúng dường các Tỳ kheo chăm sóc người bệnh.

_ Bảy là được cúng dường thức ăn nhẹ cho Tăng đoàn.   

_ Tám là được cúng dường đồ tắm cho các Tỳ kheo ni.

Tóm lại, qua bài kinh Nhân Quả đức Phật đã chỉ chúng ta thấy rõ ràng không có gì là cố định, từ con người cho đến muôn loài, muôn vật đều chịu sự chi phối và vận hành của nhân quả, không có cái gì do một nhân mà hình thành. Tối hay sáng, tốt hay xấu, giàu hay nghèo, sang hay hèn, quý hay tiện đều do con người tạo lấy, mọi thứ đều có thể thay đổi được nếu chúng ta cố gắng, quyết tâm, ý chí kiên trì, chịu đựng và bền bỉ lâu dài.

                   

 

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

5.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập