Những Bài Giảng Tóm Tắt Của Khóa Thiền Minh Sát Mười Ngày - 03. Bài giảng ngày thứ hai

Đã đọc: 8495           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Ngày thứ hai đã qua. Mặc dù có phần nào dễ chịu hơn ngày đầu, những chướng ngại vẫn còn tồn tại. Tâm thức quá lăng xăng, lay động, điên cuồng giống như con bò hoang hoặc voi hoang gây ra nhiều thiệt hại khi nó xâm nhập vào nơi cư trú của con người.

Ðịnh nghĩa chung về tội lỗi và lòng mộ đạo [1]

Hai thành phần của Bát Thánh Đạo: Giới và Định (Sáu chi phần của Bát Thánh Đạo)

Ngày thứ hai đã qua. Mặc dù có phần nào dễ chịu hơn ngày đầu, những chướng ngại vẫn còn tồn tại. Tâm thức quá lăng xăng, lay động, điên cuồng giống như con bò hoang hoặc voi hoang gây ra nhiều thiệt hại khi nó xâm nhập vào nơi cư trú của con người. Nếu một người thông minh biết huấn luyện và điều phục thú hoang thì tất cả sức mạnh và năng lực của nó dùng cho mục đích phá hoại trước kia, bây giờ được sử dụng cho công việc xây dựng xã hội. Tương tự, tâm thức có sức mạnh và nguy hiểm còn hơn cả voi hoang, nó cần phải được huấn luyện và điều phục; khi đó sức mạnh lớn lao của nó sẽ bắt đầu phục vụ chúng ta. Nhưng quý vị phải luyện tập thật nhẫn nại, thật kiên trì, và liên tục. Hành trì bền bỉ là bí quyết của thành công.

Chính quý vị phải thực hành; không ai có thể tu giúp cho quý vị. Với tình thương bao la và lòng từ bi, bậc Giác Ngộ chỉ phương pháp tu tập, nhưng Ngài không thể mang bất cứ ai lên vai của Ngài để đi đến mục đích tối thượng. Chính quý vị phải thực hiện những bước tiến này, tự chiến đấu, tự giải thoát. Dĩ nhiên, một khi bắt đầu tu tập, quý vị sẽ nhận sức mạnh hỗ trợ từ Giáo pháp, nhưng quý vị vẫn phải tự mình hành trì. Quý vị phải tự mình đi suốt con đường.

Để hiểu con đường mà quý vị đang đi là gì, đức Phật đã mô tả nó qua những lời nói rất giản dị:

Từ bỏ tất cả những việc làm tội lỗi và bất thiện,

Hãy làm tất cả những việc lành

Hãy thanh lọc tâm;

Đây là lời dạy của các bậc Giác ngộ [2].

Ðây là phương pháp chung có thể áp dụng cho mọi người ở bất kỳ giai cấp, sắc tộc, hoặc quốc gia nào. Nhưng vấn đề khó khăn là ở chỗ định nghĩa về tội lỗi và lòng mộ đạo. Khi tinh hoa giáo pháp bị mất, giáo pháp trở thành giáo phái, và rồi mỗi giáo phái lại định nghĩa “lòng mộ đạo” theo cách khác nhau, mang hình thức riêng biệt của từng giáo phái, hoặc hành trì theo nghi lễ nào đó, hoặc chấp chặt một số tín ngưỡng. Tất cả những định nghĩa này mang hình thức phe phái, chúng có thể được chấp nhận đối với một số người này nhưng không được chấp nhận đối với một số người khác. Tuy nhiên, giáo pháp đưa ra một định nghĩa chung về tội lỗi và thuần tín như sau: Bất cứ hành động nào có hại đến người khác, làm cho họ bất an, và bất hòa thì đó là hành động tội lỗi, bất thiện. Bất cứ việc làm nào giúp người khác, giúp họ an ổn và hài hòa thì đó là việc làm đúng đắn, lương thiện. Ðịnh nghĩa này không thích hợp với bất cứ giáo điều nào, nhưng lại thích hợp với qui luật tự nhiên. Và theo qui luật tự nhiên, chúng ta không thể làm bất cứ việc gì có hại đến người mà không phát khởi phiền não trong tâm chúng ta trước: như là tâm sân hận, sợ hãi, thù hằn v.v...; và bất cứ khi nào chúng ta làm việc bất thiện, chúng ta đều phải chịu đau khổ, phải kinh qua những khổ sở của địa ngục trong tâm chúng ta. Tương tự, chúng ta không thể làm một việc giúp người mà trước hết chúng ta không đi từ tình thương, lòng từ, thiện chí; và ngay lúc chúng ta bắt đầu phát triển những thiện tâm thanh tịnh như vậy, chúng ta bắt đầu hưởng được an lạc thiên giới nơi chúng ta. Khi quý vị giúp người khác, cũng là lúc quý vị đang giúp chính mình; khi quý vị làm hại người khác, cũng lúc đó quý vị đang làm hại chính quý vị. Đây là giáo pháp, chân lý, qui luật - qui luật chung của tự nhiên.

Con đường của giáo pháp được gọi là Bát Thánh Đạo, mang ý nghĩa cao thượng là bất cứ ai đi trên con đường này, chắc chắn vị ấy sẽ trở thành một vị có tâm hồn cao thượng, một thánh nhân. Giáo pháp được chia làm ba phần: Giới, Định và Trí tuệ. Giới (sīla) là nền tảng đạo đức – nghĩa là sự từ bỏ những việc làm bất thiện của thân và lời nói. Thiền Định (Samādhi) là tu tập làm phát triển khả năng tự chủ tâm thức của chúng ta. Trì giới và tu tập thiền định rất có lợi ích nhưng cả hai đều không thể đoạn tận tất cả phiền não đã tích tụ trong tâm. Vì lý do này, phần thứ ba của giáo pháp phải được hành trì: đó là trí tuệ (Paññā), sự phát triển trí tuệ, tuệ quán, làm tâm thanh tịnh hoàn toàn. Ba chi phần trong Bát Thánh Đạo thuộc về giới như sau:

1. Sammā-vācā nghĩa là chánh ngữ, lời nói thanh tịnh. Để hiểu lời nói thanh tịnh là gì, chúng ta phải hiểu thế nào là lời nói bất tịnh. Nói láo để lừa gạt người khác, nói thô lỗ làm tổn hại đến người khác, nói sau lưng, nói vu khống, nói lảm nhảm và tranh cãi không có mục đích, tất cả những lời nói như vậy là lời nói bất tịnh. Khi chúng ta từ bỏ những lời nói bất tịnh này, những  lời nói còn lại là lời nói thanh tịnh.

2. Sammā-kammanta nghĩa là chánh nghiệp, thân không làm ác. Trong tiến trình tu tập giáo pháp chỉ có một thước đo để định mức cho hành động thanh tịnh hoặc không thanh tịnh, đó là hành động thuộc về thân, khẩu hoặc ý, và đó là những hành động giúp người hoặc làm hại người. Vì vậy, giết hại, trộm cắp, phạm tội hãm hiếp, hoặc tà dâm, và nghiện ngập đến nỗi chúng ta không biết là những hành vi chúng ta đang làm hại tự thân và tha nhân. Khi chúng ta từ bỏ những việc làm bất thiện của thân, những việc làm còn lại đều là chân chánh.

3. Sammā-ājīva nghĩa là chánh nghiệp. Mỗi người phải có một vài phương kế để nuôi sống bản thân và những người nương tựa, nhưng nếu phương kế sinh sống có hại đến người khác, thì phương kế đó không phải là một lối sống chân chánh. Có thể chúng ta không sinh nhai bằng những việc làm sai trái, nhưng chúng ta lại khuyến khích người khác làm việc sai; nếu làm như vậy chúng ta cũng không thực hành đúng chánh mạng. Ví dụ: bán rượu, mở sòng bạc, bán vũ khí, bán thú sống, thịt thú, tất cả đều là những việc làm không phải là chánh mạng. Ngay cả khi giữ chức vụ cao nhất, nếu làm việc chỉ vì mục đích bốc lột người khác thì vị ấy cũng không thực hành đời sống chánh mạng. Nếu động cơ thúc đẩy người ấy thực hiện vai trò như là một thành viên của xã hội, để đóng góp sức lực và kỹ năng của mình vì sự tốt đẹp chung, đáp lại những việc làm này vị ấy nhận một phần thù lao tương xứng, vị ấy và những người nương tựa sinh sống nhờ phần thù lao này, như vậy vị ấy đang thực hành đời sống chánh mạng.

Người tại gia, thế tục đều cần tiền để xoay xở trong cuộc sống của mình. Tuy nhiên, mối nguy hiểm là việc kiếm tiền trở thành một phương tiện tâng bốc tự ngã: vị ấy tìm cách thu nhập càng nhiều càng tốt, và khinh miệt những ai có mức thu nhập ít hơn. Thái độ như vậy có hại cho bản thân và người khác, vì tự ngã càng tăng trưởng, thì giải thoát càng khó khăn hơn. Vì vậy, yếu tố quan trọng của đời sống chánh mạng là bố thí, làm từ thiện, chia sẻ một phần của chúng ta kiếm được cho người khác. Như thế, chúng ta không những chỉ làm lợi cho bản thân mà còn làm lợi cho mọi người.

Nếu giáo pháp chỉ có những điều khuyên răng từ bỏ việc làm có hại đến người khác, thì nó sẽ không có hiệu quả. Nhờ tri thức, chúng ta có thể hiểu mối nguy hiểm của việc làm bất thiện và ích lợi của việc làm thiện, hoặc chúng ta có thể chấp nhận tầm quan trọng của giới-luật vì lòng mến mộ của chúng ta đối với những người thuyết giảng về nó. Nhưng chúng ta vẫn tiếp tục làm sai, vì chúng ta không làm chủ được tâm của mình. Vì vậy, phần thứ hai của giáo pháp, Chánh định: sự phát triển khả năng làm chủ tâm thức của chúng ta cần phải tu tập. Trong phần này bao gồm ba chi trong Bát thánh đạo:

4. Sammā-vāyāma nghĩa là chánh tinh tấn, hành trì đúng phương pháp. Trong khi thực hành, quý vị đã thấy tâm yếu ớt và không vững chắc như thế nào rồi, tâm luôn luôn bị kích động bởi đối tượng này đến đối tượng khác. Tâm thức như vậy cần phải được trau luyện để tăng sức mạnh. Có bốn cách thực tập làm cho tâm tăng thêm sức mạnh: đó là tránh xa và từ bỏ tất cả các bất thiện pháp có thể phát sanh, không cho phát sinh những bất thiện pháp chưa phát sinh, duy trì và phát triển tất cả các thiện pháp đã có trong tâm và làm cho các thiện pháp chưa phát sinh được phát sinh. Qua thực tập chánh niệm hơi thở (Anāpāna), quý vị đã gián tiếp thực hành phương pháp tu tập này.

5. Sammā-sati nghĩa là chánh niệm, tỉnh giác trong sát na hiện tại.  Quá khứ chỉ là kỷ niệm; tương lai chỉ là khát vọng, lo sợ và tưởng tượng. Quý vị bắt đầu thực tập chánh niệm (sammā-sati) bằng cách tự trau luyện để giữ tâm tỉnh giác với bất cứ cảm thọ gì đang xảy ra tại vùng hai lỗ mũi trong sát na hiện tại. Quý vị phải huân tập khả năng tỉnh giác các trạng thái hiện hữu trong thân và tâm, từ cấp độ thô nhất đến vi tế nhất. Khi bắt đầu thực hành, quý vị hãy tập trung vào ý thức, hơi thở có tác ý, hơi thở tự nhiên, hơi thở nhẹ, sau đó chú ý đến sự tiếp xúc của hơi thở với đối tượng của nó. Bây giờ quý vị hãy tập trung vào một đối tượng vi tế hơn: đó là các cảm thọ tự nhiên và cảm thọ của thân thể quanh khu vực của mũi. Quý vị có thể cảm nhận nhiệt độ của hơi thở, hơi thở lạnh khi hít từ ngoài vào, hơi thở ấm khi thở từ trong ra. Ngoài vấn đề vừa trình bày, có vô số những cảm thọ không quan hệ đến hơi thở: đó là cảm thọ nóng, lạnh, ngứa, kích động, dao động, đè nén, căng thẳng, đau đớn v.v… quý vị không thể chọn lựa bất cứ loại cảm thọ nào để cảm nhận, vì quý vị không thể tạo ra cảm thọ. Chỉ theo dõi; duy trì tỉnh giác. Cái tên cảm thọ không quan trọng; điều quan trọng là tỉnh giác với cảm thọ đang hiện hành mà không phản ứng lại nó.

Như quý vị đã thấy, thói quen của tâm thức thường bị lôi cuốn về tương lai hoặc quá khứ, làm phát sinh tham ái và sân hận. Khi thực hành chánh niệm quý vị bắt đầu phá vỡ thói quen này. Không phải sau khóa tu tập, quý vị sẽ quên hết quá khứ và không còn nghĩ ngợi gì về tương lai nữa. Nhưng thực tế quý vị thường tiêu phí năng lực khi đắm chìm trong quá khứ hoặc tương lai một cách vô ích, tiêu phí quá nhiều đến nổi khi quý vị nhớ lại hoặc lên kế hoạch làm việc gì đó, quý vị lại không làm được. Qua tu tập chánh niệm, quý vị sẽ học được cách luyện tâm kiên định hơn trong giây phút hiện tại, và quý vị sẽ thấy rằng quý vị có thể nhớ lại quá khứ khi cần thiết và lập ra những kế hoạch thích hợp cho tương lai. Quý vị sẽ sống một đời sống lành mạnh và hạnh phúc.

6. Sammā-samādhi nghĩa là chánh định. Mục đích của phương pháp hành trì này không phải chỉ có chánh định; quý vị phải định tâm trên nền tảng thanh tịnh. Chúng ta có thể định tâm trên nền tảng tham ái, sân hận hoặc vô minh, nhưng đây không phải là chánh định. Chúng ta phải tỉnh giác với tâm không tham ái hoặc không sân hận trong giây phút hiện tại. Duy trì sự tỉnh giác trong từng sát na như vậy được gọi là chánh định.

Qua việc tuân thủ nghiêm túc năm giới quý vị bắt đầu thực tập giới. Qua việc luyện tâm để chuyên chú vào một điểm, một đối tượng thật trong sát na hiện tại, không móng khởi tham ái hoặc sân hận, quý vị  bắt đầu tu tập chánh định. Bây giờ hãy tu tập tinh tấn làm cho tâm thức được nhạy bén, để khi bắt đầu tu tập trí tuệ, quý vị có thể nhập vào những cấp độ sâu của tâm vô thức, loại trừ phiền não ẩn núp ở đó, và an trú chân hạnh phúc - hạnh phúc giải thoát.

[1] Thuật ngữ “lòng mộ đạo” được dịch từ thuật từ “piety”, từ này kết hợp với từ ‘filial’ có nghĩa là “lòng hiếu thảo”, “lòng trung thành” nhưng cả hai nghĩa này không thích hợp với nội dung của bài giảng. Vì vậy nghĩa thứ ba của từ là “lòng mộ đạo” tạm sử dụng trong bối cành này.

[2] Ý này xuất phát từ bài kệ:

Chư  ác mạc tác,

Chúng thiện phụng hành,

Tự  tịnh  kỳ ý.
Thị chư Phật giáo.
Tạm dịch là:
Không làm các điều ác,
Hãy làm các điều việc lành,
Giữ   tâm ý trong sạch.
Ấy lời chư Phật dạy.

Chân hạnh phúc đến với quý vị.

Cầu mong cho tất cả chúng sanh đều hạnh phúc.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập