Tôn Giáo Thích Hợp Trong Thế Giới Hiện Đại

Đã đọc: 8777           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

His Holiness the Fourteenth Dalai Lama Milan, Italy, December 7, 2007 Transcribed and lightly edited by Alexander Berzin Nguyên tác: The Relevance of Religion in Modern Times

His Holines the Dalai Lama and the great Italian Tenor Luciano Pavarotti

Chúng tôi muốn nói về sự thích đáng của tôn giáo trong thế giới hiện đại.  Mọi người, do bởi tính tự nhiên, có một cảm nhận về tự ngã và, với điều ấy,  [họ]trải qua những hiện tượng có thể biết được với một cảm giác khổ đau, vui sướng, hay trung tính (1).  Đây là những sự thật, không cần phải  điều nghiên tại sao.  Động vật cũng có điều này.  Do bản chất tự nhiên, tất cả chúng ta thích an lạc hạnh phúc và không thích bất hạnh (2) cùng đau khổ.  Cũng không cần phải chứng minh điều này.  Trên căn bản này, chúng ta có thể nói về quyền lợi của mọi người để có một đời sống hạnh phúc và vượt thắng khổ đau.

 

Bây giờ, có hai đặc trưng của đau đớn và vui sướng.  Một liên hệ với kinh nghiệm cảm giác thân thể và một với thể trạng tinh thần.  Thể trạng cảm giác là thông thường đến tất cả những chủng loại động vật có vú có năm giác quan.  Như đối với thể trạng tinh thần, một số động vật có điều ấy.  Nhưng, do bởi con người có sự thông minh phức tạp, họ có ký ức ghi nhớ lâu dài hơn cũng như những suy tư  về tương lai. Điều này vượt trội hơn là ở động vật có.  Do  vậy, con người có sự vui sướng và hài lòng hay đớn đau tinh thần – hy vọng, dự đoán, sợ hãi.  Thế nên, sự hạnh phúc hay bất hạnh thân thể và sự hạnh phúc hay bất hạnh tinh thần là  những điều tách biệt nhau.  Chúng ta có thể trải qua sự đớn đau thể xác, nhưng với sự an lạc tinh thần, và tại những thời điểm khác, tình trạng thân thể là tốt đẹp, nhưng thể trạng tinh thần của chúng ta bị chứa đầy lo lắng và không hài lòng.

 

Tình trạng vật lý liên hệ đến những sự thuận lợi của thân thể - thực phẩm, áo quần, nhà cửa, ngoại hình đẹp, âm thinh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm thân thể, những thuận lợi vật chất.  Một số người rất giàu sang. Họ có tiếng tăm, học vấn, sự tôn trọng, nhiều bè bạn.  Nhưng vẫn như những con người, họ là những cá nhân rất bất hạnh.  Đây là bởi vì những tiện nghi vật chất đã thất bại trong việc đem đến sự thõa mãn hay thoãi mái tinh thần.  Một số người với vô số căng thẳng, lo lắng, ganh đua, ganh tị, thù hận, dính mắc – những thứ này đưa đến bất hạnh.  Do vậy, những lợi ích của thân thể và vật chất có những giới hạn.  Nếu chúng ta quên lãng thể trạng tinh thần, đời sống không thể có hạnh phúc an lạc.  Những xã hội giàu có có những sự thoãi mái vật chất, nhưng đời sống của họ không thể bảo đảm cho con người ở đấy có những tâm tư an lạc, bình hòa, thoãi mái.  Do thế, chúng ta cần một cơ chế để mang đến sự hòa bình của tâm hồn.

 

Một cách phổ thông, tôn giáo là một công cụ để mang đến sự hòa bình và thỏa mãn của tinh thần, sự thoãi mái tinh thần với niểm tín ngưỡng nào đấy.  Nhiều người đồng ý rằng  điều mà ở đấy cần là một phương pháp thế nhân để mang đến hòa bình của tâm hồn, nhưng điều ấy chúng tôi sẽ thảo luận trong buổi nói chuyện công cộng.  Nhưng nếu chúng tôi nói về một phương pháp để mang đến hòa bình của tâm thức căn cứ trên tín ngưỡng, thể thì có hai đặc trưng của tôn giáo – tín ngưỡng không có triết lý và tín ngưỡng với triết lý.

[See: Religious Harmony, Compassion, and Islam.]

 

Trong thời xưa, người ta dùng tín ngưỡng để mang đến hy vọng và thoãi mái khi họ đối diện với những tình cảnh chán chường – những vấn nạn ngoài tầm kiểm soát của chúng ta,  tuyệt vọng.  Trong những hoàn cảnh như thế, tín ngưỡng cung ứng một số hy vọng.  Thí dụ, có sự đe dọa của thú vật vào ban đêm, thế nên [có] thêm sự sợ hãi trong bóng tối.  Với ánh sáng, chúng ta cảm thấy bảo đảm hơn.  Cội nguồn của ánh sáng đến từ mặt trời, do vậy mặt trời là điều gì ấy thiêng liêng và vì thế một số người thờ phượng mặt trời.  Lửa cung cấp thoãi mái khi chúng ta lạnh lẽo và vì thế một số người xem lửa như điều gì ấy thánh thiện.  Lửa đến từ sấm chớp, điều ấy là huyền bí, và do vậy cả lửa và sấm chớp là thiêng liêng.  Đây là những tín ngưỡng sơ khai, không có triết lý.

 

Một đặc trưng khác có lẽ [phải] kể  đến  xã hội Ai Cập cổ xưa.   Chúng tôi không biết về điều ấy.  Nền văn minh ngược về trước sáu hay bảy nghìn năm và có tín ngưỡng.  Khi chúng tôi ở tại một trường Đại học ở thủ đô Cairo, Ai Cập, chúng tôi tuyên bố thích thú rằng nếu chúng tôi có thêm thời gian, chúng tôi muốn được học ở đấy và nghiên cứu về nền văn minh cổ điển của Ai Cập, nhưng kém may mắn thay chúng tôi không có thời gian.  Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp nào, một đặc điểm khác của tôn giáo [phải] kể đến nền văn minh thung lũng sông Ấn ở Ấn Độ và nền văn minh Trung Hoa.  Họ có những tôn giáo phức tạp hơn với một tư tưởng.  Có lẽ nền văn minh thung lũng sông Ấn phong phú hơn những nền văn minh khác.  Ở Ấn Độ, ba hay bốn nghìn năm về trước đã có tín ngưỡng rồi với một triết lý nào đấy.  Do vậy, một đặc điểm khác của tôn giáo là tín ngưỡng với những khái niệm triết lý nào đấy.

 

Trong đặc trưng thứ hai này, có những câu hỏi thông thường.  Một người bạn Do Thái đặt  để chúng một cách thú vị:  “Cái tôi” là gì?  Tôi đến từ nơi nào?  Tôi sẽ đi về chốn nào?  Mục tiêu của cuộc đời là gì?  Đây là những câu hỏi chính.  Những câu trả lời đến những điều này ở trong hai đặc trưng:  thuyết hữu thần và thuyết vô thần.

 

Ở Ấn Độ, ba nghìn năm về trước con người đã cố gắng để tìm một câu trả lời đến [câu hỏi] “cái tôi” là gì, ngã là gì?  Theo những kinh nghiệm thông thường, thân thể khi trẻ có một sự biểu hiện và hình dáng khác hơn khi già.  Tâm thức cũng thế, trong từng giây phút là khác biệt.  Nhưng chúng ta có một cảm giác tự nhiên của “cái tôi” – khi “tôi” trẻ, khi “tôi” già.  Do thế, phải có một chủ nhân ông của thân thể và tâm thức.  Chủ nhân ông phải là điều gì ấy độc lập và thường tại, không thay đổi, trong khi thân thể và tâm thức đổi thay.  Thế nên, ở Ấn Độ, ý tưởng về một cái ngã, một linh hồn, một “atman” – được sinh ra [từ đấy].  Khi thân thể không còn có thể dùng được nữa, một linh hồn vẫn duy trì ở đấy.  Đấy là câu trả lời cho [câu hỏi] “cái tôi” là gì.

 

Thế thì, linh hồn đến từ chốn nào? Nó có khởi đầu và kết thúc hay không?  Không có khởi đầu thì khó chấp nhận, và vậy thì phải có một sự khởi đầu, giống như có một sự bắt đầu của thân thể này.  Và vì thế Thượng Đế tạo nên linh hồn. Và như để có sự kết thúc, chúng ta hình thành sự hiện diện của Thượng Đế hay cuối cùng hòa tan trong Thượng Đế.  Những tôn giáo Trung Đông – buổi đầu của Do Thái Giáo, Ki Tô Giáo, và có thể là Ai Cập – tin tưởng sự sống sau khi chết.  Nhưng, đối với Do Thái Giáo, Ki Tô Giáo, và Hồi Giáo, chân lý căn bản là Thượng Đế, đấng Tạo Hóa.  Đấy là nguồn cội của mọi thứ.  Thượng Đế đó phải có năng lực vô giới hạn và vô hạn chế từ ái và bi mẫn.  Mỗi tôn giáo xác nhận một lòng từ bi vô hạn, như Thánh Allah.  Và Thượng Đế là vượt ngoài kinh nghiệm, chân lý tối hậu.  Đó là tôn giáo hữu thần.

 

Thế rồi, ba nghìn năm trước đây, chúng tôi nhận triết lý Số Luận Sư (Samkhya) ở Ấn Độ.  Và trong triết lý này, ở đấy phân thành hai phái: một tin tưởng ở Thượng Đế và một nói không với Thượng Đế.  Thay vì thế, nhóm sau nói về vấn đề căn bản, tự tính (prakrti), và hai mươi lăm loại hiện tượng có thể biết được.  Do vậy, đối với họ, vấn đề căn bản, tự tính là thường tại và là tạo hóa.  Thế nên, trước thời Đức Phật, đã có những khái niệm vô thần rồi.

 

Rồi thì, khoảng 2600 năm trước đây, Đức Phật và khai tổ của Kỳ Na Giáo Mahavira, xuất thế.  Không ai trong họ đề cập đến Thượng Đế, nhưng thay vì thế nhấn mạnh một cách đơn giản đến nguyên nhân và hiệu quả (nhân quả).  Do vậy, một nhánh của Số Luận Sư và cả Kỳ Na Giáo lẫn Phật Giáo là những tôn giáo vô thần.

 

Trong những tôn giáo vô thần, Phật Giáo nói rằng mọi thứ đến từ nguyên nhân và những điều kiện của chính nó (nhân duyên), và bởi vì điều ấy, một trong những bản chất tự nhiên chính của nguyên nhân và hiệu quả là đổi thay.  Sự vật chẳng bao giờ đứng yên bất động.  Do vậy, vì căn bản cho tự ngã hay “cái tôi” là thân thể và tâm thức, những điều đang thay đổi luôn luôn một cách rõ ràng, và vì “cái tôi” dựa vào chúng, “cái tôi” phải cùng bản chất tự nhiên [với chúng].  Nó không thể không thay đổi và thường tại.  Nếu căn bản đổi thay, điều gì được đặc trưng trên nó cũng phải thay đổi.  Do vậy, không có một linh hồn thường tại, không đổi thay – “anatma”, vô ngã.  Đây là khái niệm đặc trưng của Phật Giáo – mọi thứ phụ thuộc hổ tương và liên hệ.  Vì thế, trong ba tôn giáo vô thần, mặc dù hai tôn giáo kia chấp nhận luật nhân quả, tuy thế họ xác nhận một cái ngã thường tại, không thay đổi.

 

Do vậy, trong những tôn giáo có niềm tin với một triết lý, có nhiều truyền thống khác nhau.  Tất cả có hai khía cạnh – triết lý và khái niệm, cũng như sự thực hành.  Có một sự khác biệt lớn lao trong những thuật ngữ triết lý và khái niệm, nhưng sự thực hành là giống nhau – từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung, nguyên tắc (cải thiện) cá nhân.  Những triết lý và khái niệm khác nhau là những phương pháp giản dị để đem đến cho con người ước nguyện và niềm tin để thực hành từ ái, bi mẫn, tha thứ, và v.v…  Do thế, tất cả những triết lý này có cùng mục tiêu và chủ tâm – để mang từ ái, bi mẫn, và v.v…

 

Điều này rõ ràng trong Đạo Phật, Đức Phật đã dạy những khái niệm khác nhau, thường là những thứ mâu thuẩn.  Một số kinh điển nói rằng những tập hợp [uẩn] (3) – thân thể và tâm thức – giống như gánh nặng và tự ngã là điều đeo mang nó.  Một gánh nặng và điều đeo mang nó không thể là đồng nhất, và vì thế tự ngã phải tách biệt và phải tồn tại về thực chất.  Một kinh khác nói rằng nghiệp quả hay những hành vi tồn tại, nhưng không có một cá nhân hành động, không có tự ngã một cách thực thể.  Những kinh điển khác nói không có những hiện tượng ngoại tại.  Chỉ có tâm thức, và những hiện tượng khác chỉ đơn thuần là nội dung [chứa đựng] của tâm thức.  Và tâm thức tồn tại; nó tồn tại một cách thực sự.  Tuy thế, những kinh điển khác nói rằng tâm thức lẫn nội dung của nó không tồn tại một cách thực sự - không có điều gì tồn tại thực sự, thí dụ như Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, Tâm Kinh: “không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.”  Tất cả những điều này là mâu thuẩn, nhưng tất cả đều đến từ cùng một nguồn cội, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni.

 

Đức Phật đã không dạy tất cả những điều này vì sự mập mờ [hay rối rắm] của Ngài.  Ngài cũng không dạy chúng một cách chủ tâm để làm rối rắm thêm trong hàng môn đồ.  Tại sao Ngài lại dạy như thế?  Đức Phật đã lưu ý rằng những thành viên thì khác nhau [về căn cơ] và Ngài đã dạy tất cả những điều này để giúp họ.  Ngài thấy rằng tất cả những điều này là cần thiết.

 

Ba nghìn năm về trước có thể có [khoảng] mười hay một trăm triệu người.  Bây giờ là hơn sáu tỉ người.  Thế nên, trong tất cả những người này, chắc chắn có những khuynh hướng khác nhau nào đấy.  Chúng ta có thể thấy điều này ngay cả trong những đứa trẻ cùng cha mẹ.  Ngay cả những cặp song sinh, tâm tư và cảm xúc của chúng khác nhau.  Do thế, trong nhân loại, có những khuynh hướng [tính khí] khác nhau.  Những sự khác nhau này cũng bị điểu kiện hóa bởi môi trường, địa lý, và khí hậu.  Thí dụ, Ả Rập thì nóng và khô.  Ấn Độ có những mùa mưa và vì thế nó khác nhau và con người ở đấy có những cung cách sống khác nhau.  Có thể trong thời nguyên sơ, con người thì đơn giản hơn ở khắp nơi.  Nhưng bây giờ, do bởi những sự khác biệt, thật quan trọng để có những sự tiếp cận khác nhau.  Tuy nhiên, những khái niệm và triết lý không thật sự có tính chất quan trọng.  Điều quan trọng nhất là khuynh hướng và mục tiêu của tất cả những điều ấy, và điểu này là giống nhau:  hãy là một người tử tế, từ ái và bi mẫn trong sự tiếp cận của chúng ta đến những người khác.

 

Đối với một số người, rồi thì, khái niệm về một đấng sáng tạo, Thượng Đế là rất hữu ích.  Một lần chúng tôi đã hỏi một tu sĩ Ki Tô Giáo lão thành tại sao Ki Tô Giáo không tin tưởng vào những đời sống trước (tiền kiếp).  Ông nói rằng, “Bởi vì chính đời sống hiện tại này là được tạo dựng bởi Thượng Đế.”  Suy nghĩ như thế phát sinh một cảm giác thân tình với Thượng Đế.  Thân thể này đến từ bào thai bà mẹ của chúng ta và vì thế chúng ta có một cảm giác gần gũi và thoãi mái với bà mẹ của chúng ta.  Thế nên, giống như trường hợp của Thượng Đế.  Chúng ta đến từ Thượng Đế và điều này ban cho chúng ta một cảm giác gần gũi với Thượng Đế.  Càng cảm thấy gần gũi hơn, khuynh hướng tuân theo những lời khuyên bảo của Thượng Đế càng mạnh hơn, đấy là từ ái, bi mẫn.  Do vậy, sự tiếp cận hữu thần là rất năng lực và hữu ích cho nhiều người hơn là sự tiếp cận vô thần.

 

Tốt hơn là hãy giứ truyền thống tôn giáo của chính mình.  Ở Mongolia, những người truyền giáo đã trả 15 đô la để thay đổi sang Ki Tô Giáo.  Thế là một số người đi đến họ và đổi đạo mỗi năm, cứ xoay vần như thế, chỉ để lấy 15 đô la mỗi lần!  Chúng tôi khuyên những người truyền đạo này đừng can thiệp và hãy để người ta ở lại như những Phật tử truyền thống.  Điều này cũng giống như khi chúng tôi nói với những người phương Tây hãy giữ tôn giáo của chính họ.

 

Tốt nhất là hãy có thêm tin tức.  Điều này hổ trợ phát triển sự tôn trọng.  Do thế, hãy giữ truyền thống Ki Tô Giáo, nếu các bạn là Ki Tô hữu, nhưng thu thập sự hiểu biết và kiến thức của những truyền thống khác.  Như đối với những phương pháp, tất cả đều dạy cùng sự thực hành – từ ái, bi mẫn, bao dung.  Vì sự thực hành được chia sẻ một cách thông thường, [nên cũng] tốt thôi [nếu] tiếp nhận một vài phương pháp từ Phật Giáo.  Nhưng về phần khái niệm Phật Giáo không tuyệt đối – đây là phần hoàn toàn của Phật Giáo.  Nó không có lợi ích cho những người khác học hỏi.  Một linh mục Ki Tô Giáo hỏi chúng tôi về tính không, trống rỗng, và chúng tôi nói với ông ta rằng điều này không tốt cho ông.  Nếu chúng tôi giáo hóa sự tương duyên hoàn toàn, điều này có thể tổn hại đến niềm tin mạnh mẽ của ông đối với Thượng Đế.  Thế nên, tốt hơn cho những người như vậy là không nghe nói về tính không hay trống rỗng (4).

 

Tóm lại, bởi vì đại đa số những tôn giáo có cùng sự thực tập giống nhau, chỉ khác về phương pháp và triết lý khác nhau, nhưng với cùng mục tiêu, đấy là nền tảng cho sự tôn trọng lẫn nhau.  Vì thế, hãy giữ truyền thống của quý vị.  Nhưng, nếu một số phương pháp nào đấy của Phật Giáo từ sự thuyết  giảng của chúng tôi mà các bạn thấy hữu ích, thế thì hãy xử dụng chúng. Nếu chúng không lợi lạc, thôi  thì hãy từ bỏ chúng.

 

--

  (1) Neutral feeling: cảm giác trung tính - cảm giác ấy là điều, khi nó khởi lên, người ta không muốn tách rời khỏi nó, và khi nó chấm dứt, người ta cũng không ao ước được cảm nhận nó một lần nữa.

(2) Unhappiness:  bất hạnh – cảm giác ấy, khi nó sinh khởi, chúng ta muốn được thoát khỏi nó.

(3) Aggregate: tập họp – uẩn : một mạng lưới gồm nhiều thứ, tất cả những thứ này là những hiện tượng luôn thay đổi.

(4) Voidness: trống rỗng – sự thiếu vắng một cung cách khả dĩ về tồn tại.  Một cung cách khả dĩ về tồn tại đã chẳng bao giờ hiện hữu.  Thường được dịch là emptiness.

--

The Relevance of Religion in Modern Times

Tuệ Uyển chuyển ngữ

06-01-2010

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/approaching_buddhism/world_today/relevance_religion_modern_times.html

 

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

5.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập