Thế giới cõi âm

Đã đọc: 24549           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font

Nếu chúng ta lấy giáo lý để suy niệm về “thế giới cõi âm” thì có lẽ không mấy tôn giáo trên thế gian này có thể giải thích nỗi, ngoại trừ chỉ có Đạo Phật mà thôi!

Có hay không có một thế giới cõi âm? Điều đó trước kia chắc chúng ta còn phải ngập ngừng để nói là có hay không? Tuy nhiên trong những thời gian gần đây với những hiện tượng của các nhà ngoại cảm liên hệ được với những “Linh Hồn” (tạm gọi là như thế) của người chết, để giúp gia đình tìm được thân xác của họ; hay làm một vài điều gì đó. Điều ấy khiến người ta phải đặt lại vấn đề: “Mê tín dị đoan” hay “là một sự thật huyền bí”, hoặc một môn “cận tâm lý” ra đời!

Đã từ lâu, người ta đã nói nhiều đến một cõi âm; nhưng người thì tin tưởng rằng có thế giới cõi âm, còn những người chẳng hề gặp “ma” bao giờ thì họ cho rằng không có! Chính vì thế mà những người đồng bóng, hay những người làm nghề liên hệ đến cõi âm được xem như là làm nghề “mê tín dị đoan”! Nhưng dù gì trong dân gian vẫn không thể xóa được những điều kỳ lạ mà họ không thể giải thích được. Đó là nguyên nhân cho những tín ngưỡng dân gian được phổ quát cho đến ngày hôm nay:

Một linh hồn bị chết oan hiện về báo mộng cho người nhà để người nhà đi lấy xác về chôn. Một người bị bệnh, tưởng chết đi nhưng khi sống lại lại có khả năng kỳ lạ tiếp xúc với người cõi âm. Hay một người nọ bỗng dưng sau cơn bệnh lại trị bệnh cho người bằng nước lạnh. Đôi khi người chết lại báo mộng cho người nhà mình bị đói rách cần cơm ăn, áo mặc… Những điều kỳ lạ đó đã khiến cho người đời đôi lúc “không tin cũng không được”! Chính chúng là đầu mối của những tín ngưỡng mà dân gian đã duy trì trong thời gian thật là dài mà trong xã hội về sau này thấy có vẻ phản khoa học nên gọi là “mê tín dị đoan”!

Những hiện tượng “siêu hình” đó khiến cho con người ngày xưa không thể giải thích nỗi; cũng như những hiện tượng “mượn xác” lên đồng để trị bệnh hay giúp thân nhân liên hệ đến người đã khuất; Và những “bà cô”, “ông cậu” nhập thể vào thân xác người khác tự xưng là người này hay người nọ để “độ đời, cứu người”, là những nguyên nhân để đưa đến “tín ngưỡng dân gian”. Và với tín ngưỡng dân gian này đã đưa con người tin tưởng vào những vị “siêu nhiên” nào đó, hay những vị thần như thần sông, thần núi… và xa hơn nữa là đến ông thần độc quyền mà tượng trưng là “mặt trời” như: Thượng Đế, Ông Trời, hay Đức Chúa Trời chẳng hạn! Hay nói một cách khác, chính những hiện tượng đó bắt đầu cho một số tôn giáo được thành hình!

Nhưng nếu khi chúng ta cho rằng: Đấng nào đó toàn thiện, toàn năng… mà Đấng ấy đã tạo ra sóng thần, động đất, thiên tai, dịch bệnh, hồng thủy, bão lụt… để sát hại sinh linh; thì hóa ra Đấng ấy lại cũng là một Đấng tàn ác vô tiền khoáng hậu, chứ không là thiện như những người thừa hành hay giáo hội đã tuyên xưng; những điều thuyết giảng đó chỉ là ma mị để lừa đảo người khác, tín đồ!

Đạo Phật thì không như vậy! Đạo Phật không là đạo “mê tín dị đoan” như người ta lầm tưởng; nhưng nó có thể giải thích thỏa đáng được những thắc mắc về siêu hình mà trong dân gian đã gặp phải. Đối với những tôn giáo khác không có luận cứ nào để giải thích được, vì nếu một Đấng Tạo Hóa tạo ra loài người, cho họ sống trong một đời và họ lại sống, hành động theo ý muốn của Đấng đó thì thật là khó giải thích khi con người trở nên ác, và Đấng Tối Cao ấy trở nên là Đấng có tàn ác lẫn thiện lành… Nếu một tôn giáo không mang “được” tính chất Chân, Thiện, Mỹ thì tôn giáo ấy đã chẳng phải là Tôn giáo nữa; mà chỉ là một tổ chức, một giáo hội lừa phĩnh, lợi dụng tôn giáo để thực hiện một âm mưu hay ý đồ nào đó của con người, dù nó được mang tính chất địa phương hay trên toàn thế giới!

Nếu chúng ta lấy giáo lý để suy niệm về “thế giới cõi âm” thì có lẽ không mấy tôn giáo trên thế gian này có thể giải thích nỗi, ngoại trừ chỉ có Đạo Phật mà thôi!

Theo như chúng ta đã biết, sau khi chứng đạo, Đức Phật đã dùng đến Phật nhãn để nhìn trong vũ trụ, nhận thức và thuyết giảng về những thế giới, cõi Phật khác cũng như kể lại những câu chuyện trong thời quá khứ, hiện tại hay vị lai như trong Kinh điển đã ghi.

Đức Phật đã cho biết trong Luân hồi có nhiều chúng sinh “vô sắc giới” ở cõi Trời, cõi A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ. Tức là cõi “vô hình” có nhiều chúng sinh hơn cõi “hữu hình” như người và súc sinh. Vậy thì chúng sinh nào trong “thế giới cõi âm”?

Có lẽ, chúng ta nên phân biệt thế giới thần quyền của những chúng sinh trong cõi trời và đôi khi từ thế giới A-tu-la nữa. Đó là những vị “nhập xác” vào chúng sinh nào đó để thực hiện mục đích cứu người, độ đời mà những “xác” đó đã thực hiện với những việc làm cao quý, từ tâm và thiện lành, không tư lợi vì những ước nguyện, hay hạnh nguyện của chúng sinh “mượn xác” đó đã phát nguyện như vậy.

Còn những chúng sinh trong cõi địa ngục, ngạ quỷ thì họ đang chịu những hình phạt triền miên do họ “chiêu cảm”, vì những hành động họ đã làm trong những kiếp trước thì họ không thể thoát ra được để mà họ có mặt trong cõi âm, như trong Kinh Địa Tạng có ghi:

“Ngài Địa Tạng Bồ Tát nói với Ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Thưa Nhơn Giả! Đó đều là do chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế.

Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu-Di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh.

Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy”                  (Kinh Địa Tạng, HT Thích-Trí-Tịnh dịch, Chùa Pháp Bảo- Sydney ấn tống 1994, trang 80-81).

Hay:

“Nhơn giả! Những quả báo như thế trong mỗi mỗi ngục có trăm nghìn thứ khí cụ để hành hình, đều là bằng đồng, bằng sắt, bằng đá, bằng lửa. Bốn loại khí cụ nầy do các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh mà cảm vời ra”                (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 83).

Như vậy, những chúng sinh trong “thế giới cõi âm” từ đâu mà có? Họ có những lúc hiện ra để làm cho người khác phải sợ; hoặc bắt người sống phải làm theo ý mình, nếu không thì hành hạ người đó trong một tinh thần ích kỷ, phá phách… Họ là những ai?

Chúng ta hay nghe người nhân gian phân biệt “cõi âm” và “cõi dương”. Cõi dương hay là dương thế là cõi của con người đang sống, cõi ban ngày ; và “cõi âm” là cõi của người chết hay cõi lạnh lẽo, ban đêm mà người đã chết thường hay xuất hiện ra với hình dáng ảo ảo, hư hư. Thông thường, những chúng sinh bị chết thình lình, những người lính chiến chết trên trận mạc, chết sông nước, tai nạn trên đường sá, hay oan ức, bị hại… người ta mệnh danh là những “cô hồn, các đảng” và người ta cũng tin tưởng những “oan hồn” của người ấy chưa được siêu thoát nên vẫn lẩn quẩn trong thế gian, vương vấn cõi hồng trần. Đôi lúc họ lại hiện ra để làm cho người sống phải sợ sệt; và có những lúc nhu cầu phụng dưỡng, thiếu đói nên họ cần thiết nhu cầu đòi hỏi qua những đồng, bóng để rồi trong thế gian có những “thầy cúng” cùng với vàng mã; vàng mã cũng theo thời đại mà tăng tiến từ nhà tô, đến nhà lầu, xe hơi, điện thoại, máy bay cùng giấy tiền vàng bạc, quần áo giấy… để đốt, mong cho người chết nhận được mà không phải thiếu thốn, lạnh lẽo trong thế giới của người cõi âm. Từ những tín ngưỡng nhân gian này mà trước kia người đời đã phân tu sĩ Phật giáo thành: Thầy tụng (thầy cúng) và thầy chùa. Ngày nay, với tinh thần và đường lối tu được hiểu rõ hơn, cũng như trình độ tăng sĩ được nâng cao; cho nên chuyện tu hành, làm Phật sự và cầu cho vong linh người chết được siêu thoát đã làm thay đổi khá nhiều quan niệm của người thế gian đối với Đạo Phật ở nước ta.

Và trong sự giao tiếp với người “cõi âm” của các nhà ngoại cảm có đề cập đến những vị đã chết lâu đời, nhưng vong linh vẫn chưa siêu thoát; cho nên nhà ngoại cảm hãy còn tiếp xúc được. Vậy thì, tại sao?

Trên nguyên tắc, sau 49 ngày vong linh người chết đi tìm một thân xác mới thành hình để chuyển sang một kiếp khác, tiếp nối những “quả” mà mình đã gây “nhân” ở kiếp vừa rồi hay “nhân” còn lại của những kiếp xa xưa. Trong thời gian đó, vong linh được gọi là “thân trung ấm”, tức là “thần thức” của xác trước đã mất và đang đợi chờ thân xác mới để “nhập thai” bắt đầu cho một kiếp sau. Nguyên tắc thì như thế! Nhưng trong Đạo Phật có đề cập đến “Cận Tử Nghiệp” và “Nguyện lực”. Hai vấn đề này rất quan trọng đối với một con người trước và khi lâm chung. Giả sử trước khi chết người ta còn nghĩ đến con cái còn nhỏ “cần” được săn sóc, và trong khi chết họ nghĩ họ “phải” săn sóc cho con; và “nguyện lực” bám theo con. Chính nguyện lực ấy mà họ không nỡ rời xa, và “thần thức” hay “thân trung ấm” của họ không đành đi, để rồi họ lẩn quẩn không biết đến bao giờ. Khi nào họ xong để ra đi? Cho nên có thể cả trăm năm sau của thế gian, họ vẫn còn có thể nhận ra con cháu qua những nhà ngoại cảm, ông đồng hay bà bóng!

Cho nên, Đức Phật đã giảng giải: “Trong vô lượng kiếp, chúng sinh đã từng là thân thuộc, cha mẹ lẫn nhau” nên sự luyến lưu, ân nghĩa, ganh ghét hay hận thù chỉ là kết nặng giây oan trái, gắn bó khiến cho người chết không nỡ phải ra đi; điều ấy chỉ làm cho người chết càng kéo dài thêm thời gian luân hồi của chính mình. Trong Đạo Phật không đề cập đến phải khóc lóc than van vì sinh, tử là vấn đề tự nhiên của con người. Khóc lóc, kể lễ thảm thiết, làm ra vẻ ưu sầu là theo tập tục báo hiếu của con cái đối với cha mẹ trong Đạo Khổng (Nho giáo), chứ trong Đạo Phật thì:

“Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho”.       (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 111).

Và:

“Hàng thân quyến của người lâm chung đó, nên phải sắm sửa làm sự cúng dường lớn, tụng đọc Tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát, tu tạo nhân duyên phúc lành như thế, có thể cho người chết thoát khỏi chốn ác đạo, các thứ ma, quỉ, ác thần thảy đều phải lui tan cả hết”.      (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 127-128).

Hay:

“Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bịnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu của một Đức Phật, thời người chết đó, trừ năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả.

Năm tội lớn vô gián kia dầu rất nặng nề đáng lẽ trải qua ức kiếp hẳn không ra khỏi đặng quả khổ, nhưng bỡi lúc lâm chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch.

Huống là chúng sanh tự mình xưng danh hiệu của chư Phật, người nầy đặng vô lượng phước lành, trừ diệt vô lượng khổ”.                    (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 137-138).

Và Ngài Địa Tạng Bồ Tát cũng bạch cùng Đức Phật rằng:

 

“Vì lẽ trên đó nên nay con đối trước Đức Phật Thế Tôn cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người với phi nhơn vv… mà có lời khuyên bảo những chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề, ngày lâm chung, kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết hại và chớ gây tạo nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng tế lễ Quỉ, Thần, cầu cúng ma quái.

Vì sao thế? Vì việc giết hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho người chết cả, chỉ có kết thêm tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng hơn thôi”.         (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 106).

Vì, Ngài Địa Tạng giải thích như sau:

“Hàng thân thuộc nỡ nào lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm!

Cũng ví như, có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, đồ vật của người đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm”.           (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 107).

Theo như vậy, “Thế giới cõi âm” chỉ là thời gian kéo dài “Thân trung ấm” của những chúng sinh đã mất đi, do vì sự luyến lưu, yêu mến những gì mình chưa thể xa lìa hay kết tụ những thù hằn, oán ghét mà mình chưa xóa được; hoặc vì “yêu quá cuộc đời, thân xác” này; hay là người thân “van nài, luyến lưu” làm họ chưa muốn ra đi, chưa muốn rời dòng sông đã chơi, để đi tìm một thân xác khác tái sinh. Họ cứ lởn vởn, khi ẩn khi hiện mà người dân gian gọi là “ma”; hay họ phá phách, dữ tợn hơn thì gọi là “quỷ”. Đó là thế giới “ma quỷ” hay là thế giới của “Cõi âm” vậy!

Nguyên Thảo,

7/8/2011.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (4 đã gửi)

avatar
Thanh Liêm 13/07/2011 16:10:44
Kính chào Nguyên Thảo

Bài viết trình bày tư tưởng cũng khá hay giúp cho đọc giả, biết thêm về những bộ kinh. Trong đạo Phật, sau khi thành đạo, Đức Phật nói : "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành". Người Phật tử tin Phật là Đấng giác ngộ đã thành, bởi vì năm pháp tu Ngũ căn của Ngài kiểm chứng được.

Vậy : Trên nguyên tắc, sau 49 ngày vong linh người chết đi tìm một thân xác mới thành hình để chuyển sang một kiếp khác, tiếp nối những “quả” mà mình đã gây “nhân” ở kiếp vừa rồi hay “nhân” còn lại của những kiếp xa xưa. Trong thời gian đó, vong linh được gọi là “thân trung ấm”, tức là “thần thức” của xác trước đã mất và đang đợi chờ thân xác mới để “nhập thai” bắt đầu cho một kiếp sau.

Nếu không phiền xin bạn vui lòng giúp cho chúng tôi cũng như quý đọc giả của trang đạo Phật ngày nay sự kiểm chứng này, một cách Phật học cũng như khoa học.

Kính bút
Thanh Liêm
avatar
Thanh Tùng 14/07/2011 21:14:59
Vấn đề sau 49 ngày, ngoại trừ những vong linh tội quá nặng hoặc phước quá lớn ra, còn thì vong linh đi đâu cho đến nay có nhiều quan điểm lắm: Đi đầu thai ngay, thành Ngạ quỷ, vẫn trong Thân trung ấm...
Tôi vẫn băn khoăn mãi vấn đề này. Và ngay cả trong các quý thầy cũng có nhiều quan điểm chưa thống nhất được. Thiết nghĩ nếu như Chùa Hoằng Pháp tổ chức một chương trình nói riêng về cõi âm có sự có mặt của các quý thầy nhiều kinh nghiệm và các nhà ngoại cảm nổi tiếng, các nhà vật lý hiểu biết về cõi này thì tốt cho chúng ta quá!
avatar
Nguyên Thảo 16/07/2011 04:23:32
Kính Thanh Liêm,

Đầu tiên chắc tôi phải thú thật với Thanh Liêm rằng tôi chỉ là một Phật tử thôi, chứ không là nhà tu, cư sĩ hay người nghiên cứu về Đạo Phật. Tôi đến với Đạo Phật chỉ là cái “duyên” như tôi thường tâm sự trong vài bài viết, nhất là trong bài “Sự Huyền Nhiệm của Tâm Linh” (Đạo Phật Ngày Nay- Phiên bản cũ- Tháng 2/2008). Chính do những “hiện tượng” mà tôi đã cảm nhận được trong khi mình “định tâm” trên giường bệnh (trước khi tôi trở thành Phật tử), đã khiến cho tôi muốn đi vào kinh điển để “tìm kiếm” những gì mình “cảm” được đó. Càng đi sâu thì lại thấy có nhiều điều thú vị, và tôi ghi lại những thú vị ấy thành những bài viết gửi đến “Đạo Phật Ngày Nay” để cùng chia sẻ với độc giả. Nói như vậy, có nghĩa là tôi không thể giải đáp thỏa mãn “sự kiểm chứng này, một cách Phật học cũng như khoa học” được, vì sự tìm hiểu Kinh điền của tôi còn cạn cợt và nhiều giới hạn.
Tôi xin tạ lỗi về điều ấy! Tuy nhiên để trao đổi về những tìm hiểu và suy nghiệm, tôi cũng xin trình bày bằng những điều tôi biết như sau:
Trong Kinh Địa Tạng mà tôi đã dẫn (Kinh Địa Tạng, HT. Thích Trí Tịnh dịch, chùa Pháp Bảo-Sydney ấn tống 1994) có ghi:
“Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho”.
Thì liền sau đó là đoạn:
“Qua khỏi bốn mươi chín ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.
Người chết đó, nếu là kẻ có tội thời trải qua trong trăm nghìn năm không có ngày nào được thoát khỏi.
Còn nếu là kẻ phạm năm tội vô-gián thời phải đọa vào đại địa ngục chịu mãi những sự đau khổ trong nghìn kiếp muôn kiếp” (Trang 111).
Như vậy trong câu: “Qua khỏi 49 ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo” có thể giải đáp được phần nào thắc mắc của Thanh Liêm. Còn “Con đường nào để đi?” đó là tùy theo nghiệp (nhân trước) đã gieo mà đến. Trong “Duy Thức Học”: A-Lại-Da-Thức hay là Tàng Thức mà tôi xem nôm na giống như một cái “tuí” để chứa những hạt giống “nhân” (chủng tử) mà chúng sinh đã gieo (theo như Kinh Địa Tạng: Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy” (trang 81);như vậy, tất cả những hành vi lớn nhỏ, tạo tác của chúng sinh trong cuộc sống đều là “nhân”. Nhưng trong Duy Thức cho biết các “nhân” tùy theo loại mà trổ ra (nẫy mầm) trong thời điểm nào, có thể ngay trong kiếp này, có thể trong kiếp sau hay xa hơn nữa là các kiếp lâu dài về sau. Cho nên, những “nhân” trong A-Lại-Da-Thức, nếu trong kiếp kế tiếp có nhiều “nhân” tốt (nhân thiện) nẫy mầm thì “thần thức” của chúng sinh sẽ được sinh về các cõi phước báu; nếu nhiều “nhân” xấu (nhân ác) thì chúng sinh phải bị “chiêu cảm” bằng những cảnh giới hay sinh vào cõi xấu hơn.
Còn người tu là nhằm loại bỏ những nhân xấu, hoàn thiện cho A-Lại-Da-Thức của mình chỉ còn nhân tốt không thôi; tức là không có một nhân xấu nào nữa thì họ không phải “trả nợ” thì sự tái sinh không cần thiết để trả quả; và họ sẽ đạt được quả “A-La-Hán, Bồ-Tát hay Phật” thoát khỏi vòng luân hồi. Lúc đó A-Lại-Da-Thức của họ tự tan vỡ trở thành Đại-Viên-Cảnh-Trí và Tâm chúng sinh ấy sẽ viên dung cùng các vị A-La-Hán, Bồ-Tát, hay Phật khác trong cõi “Chơn Tâm” hay Niết Bàn, Như Lai Tạng… hoặc bằng những danh từ khác. Trong cõi đó chỉ có Phật không thôi (Bất Nhị) tức là không có “sự phân biệt” giữa Ta, Người, Chúng sinh và sự viên dung này vô hạn định (Thọ mạng tướng). Sự viên dung ấy được giữ vững bằng tính (Vô Ngã: Ta cũng như bao vị Phật khác; không thấy “Cái Ta” hơn người nữa); và mỗi vị Phật đại biểu cho mọi vị Phật, mọi vị Phật cũng như là một vị Phật giống như câu “Một là tất cả, tất cả là một” vậy!
Và nếu Thanh Liêm muốn tìm hiểu thêm về vấn đề “Trung Ấm”, tôi thiết nghĩ Thanh Liêm có thể vào “Đạo Phật Ngày Nay- Phật pháp- Giáo pháp- nhân quả, nghiệp báo, luân hồi” để xem “Tạng thư sống chết” của Ngài Sogyal Rinpoche mà Ni sư Thích Nữ Trí Hải đã dịch. Ngoài ra, trong quyển “Phật Học Quần Nghi” của HT. Thích Thánh Nghiêm (do dịch giả Thích Minh Quang dịch) trong phần “Thân Trung Ấm là gì?” có đề cập đến những tài liệu sau: Câu Xá Luận quyển 9, 10; Đại Tỳ Bà Sa Luận; Kinh Đại Bảo Tích quyển 56: Nhập Thai Tạng Hội; Đại Thừa Nghĩa Chương và Thích Tịnh Độ Quần Nghi luận đều có đề cập đến Thân Trung Ấm.

HT Thánh Nghiêm giảng như sau:

“Thân trung ấm có phước báu lấy hương thơm làm thức ăn để bồi dưỡng. Trong khi đó, thân trung ấm vô phước lại lấy mùi xú uế làm thức ăn. Thân trung ấm đều có thần thông, có thể trông thấy những thứ mà mắt thường không trông thấy được. giai đoạn thân trung ấm kéo dài bao lâu? Vấn đề này có nhiều cách giải thích khác nhau. Có người nói thân trung ấm kéo dài đến khi tái sinh, không có thời gian nhất định. Có người nói sinh mệnh thân trung ấm chỉ có bảy ngày. Nó chết rồi lại sống, sống rồi lại chết, mỗi lần chết sống với thời gian bảy ngày như vậy là thân trung ấm. Song từ xưa đến nay, giới Phật giáo phần nhiều đều căn cứ vào Đại Tỳ Bà Sa Luận, tin rằng người mất trong khoảng bốn mươi chín ngày là thân trung ấm”…

“Thực ra, người ta sau khi chết và trước khi có thọ sinh đời sau gọi là trung ấm. Chúng sinh trong ba cõi sáu đường, mất đây sinh kia đều trải qua giai đoạn thân trung ấm. Song chúng sinh trong cõi vô sắc là cảnh giới thiền định, không có sắc uẩn, cho nên không có thân trung ấm”…

Và HT.Thích Thánh Nghiêm tóm lại như sau:

“Từ những tư liệu trong Kinh luận trên cho thấy, phàm còn là chúng sinh trong cõi dục, cõi sắc, ngoài những nghiệp cực thiện và cực ác sau khi chết lập tức siêu thăng hay đọa lạc ra, đều phải trải qua giai đoạn thân trung ấm. Thân trung ấm không thuộc vào bất cứ đường nào trong sáu đường. Khi nhận duyên thọ sinh chín muồi, nó sẽ dùng phương thức đầu thai hay hóa sinh để xác định loài chúng sinh mà nó sẽ sinh vào.
Trước khi thọ sinh, có thể có phương pháp làm thay đổi loài thọ sinh. Ví dụ như hương linh được nghe Phật pháp, hay quyến thuộc biết làm các việc Phật sự như cúng dường, làm phước để hồi hướng, thì có thể giúp cho hương linh được sinh về cảnh giới lành. Nếu như còn mang lòng oán hận, lại thêm sự quấy rối của quyến thuộc hay oan gia, cũng sẽ khiến thân trung ấm đọa lạc trong đường dữ. Cho nên Mật giáo Tây Tạng rất coi trọng pháp cứu độ thân trung ấm. Ngay cả Hiển giáo cũng chủ trương trợ niệm lúc lâm chung và siêu độ trong bảy thất bốn mươi chín ngày sau khi mất. Dùng Phật pháp để cứu độ thân trung ấm, đó là triệu thỉnh thân trung ấm đến nghe chánh pháp, hóa giải oán kết, giảm nhẹ phiền não. Đây cũng là nhờ sức Phật pháp khiến quỉ thần có duyên hoan hỉ, và đem công đức kết duyên lành này nhằm đạt đến hiệu quả siêu độ”.

Thuở nhỏ vì tôi cũng hay sợ ma, và thỉnh thoảng nghe người nói về chuyện gặp ma. Có người gặp, người thì không. Mặc dù tôi cũng không gặp, nhưng tôi thường hay thắc mắc, bèn nẫy ra ý tìm hiểu vì sao theo phương cách khoa học của những nhà Duy vật? Tôi đã suy nghiệm rằng: Mỗi con người khi sinh ra có được tinh thần hay trí khôn cùng với thân xác. Qua quá trình lớn lên và trí óc tăng trưởng “luồng sóng, nhân điện của con người” càng được kết tụ tinh tế hơn. Khi chết đi luồng sóng đó còn tồn tại trong khoảng thời gian nào đó trong không gian. Người nào có nhân điện cùng tần số có thể thấy người đã chết như là một hiện tượng “gặp ma”; giống như cây mía lúc còn nhỏ hay non không ngọt, nhưng khi già có đủ độ ngọt. Người ta giết cây mía đi, ép xác nó để có đường thì tinh thần hay sóng điện của người chết cũng tương tự như vậy.
Song điều ấy không thể giải thích được những hiện tượng tái sinh mà ngày nay có nhiều câu chuyện khiến chúng ta còn nhiều suy ngẫm. Và cũng chính những hiện tượng tái sinh này đã khiến cho người ta thường nghĩ về Đạo Phật nhiều hơn, vì những tôn giáo khác không thể đáp ứng sự thỏa mãn cho con người về sự giải thích của nó; đó là chưa kể đến cái giáo lý không hợp với thời đại cũng như mang tính “lừa đảo” tín đồ trong đó.

Thanh Liêm thân kính,
Trên đây là những gì tôi tìm hiểu được và ghi lại để chia sẻ cùng Thanh Liêm và Quý độc giả của Trang nhà Đạo Phật Ngày Nay. Mong được nhiều ý kiến đóng góp từ những Vị Cao Tăng cùng những Vị nghiên cứu sâu rộng, để chúng ta có thể có được những điều cần học hỏi quý báu hơn.
Trân trọng Kính chào!

Nguyên Thảo,
16/7/2011.
avatar
19/02/2013 14:26:15
Rất đồng ý.
tổng số: 2 | đang hiển thị: 1 - 2

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

4.25

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập