Khóa tu và nghi thức Xuất gia gieo duyên
“Xuất gia gieo duyên” là cơ hội giúp cho mọi người, nhất là các bạn trẻ muốn trở thành người tu nhưng không đoan chắc rằng mình có thể đi trọn vẹn sự chọn lựa đó, hiểu thấu được ý nghĩa, giá trị, lợi ích của người xuất gia, từ đó, dễ dàng quyết định mục đích sống và lý tưởng dấn thân.
Bài mới
Chính phủ Thái: phim, hình ảnh giả trên mạng gây ra bất kính Tam Bảo
Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.Chân Như Tịnh Tĩnh
Phẩm Tự Tánh thanh tịnh mà tất cả tướng đều là tánh, tất cả hiện hữu đều là Như Lai Tạng. Kinh Đại Bát Nhã nói, “Tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh. Ở trong các pháp đó, nếu Bồ Tát tâm thông đạt chẳng mê mờ, đó chính là Trí Huệ Ba La Mật.” Đơn giản hóa, Chân Như là cái dung chứa mọi mâu thuẫn, đối nghịch nhị nguyên: có và không, động và tĩnh, một và nhiều, như thật và như huyễn, tướng và vô tướng… đồng thời vẫn thanh tịnh, không bị nhiểm ô bởi chúng.Khóa tu và nghi thức Xuất gia gieo duyên
“Xuất gia gieo duyên” là cơ hội giúp cho mọi người, nhất là các bạn trẻ muốn trở thành người tu nhưng không đoan chắc rằng mình có thể đi trọn vẹn sự chọn lựa đó, hiểu thấu được ý nghĩa, giá trị, lợi ích của người xuất gia, từ đó, dễ dàng quyết định mục đích sống và lý tưởng dấn thân.Tưởng Niêm Ân Sư Thượng Đỗng Hạ Tuyên
“Từ bi, Trí tuệ là hai đặc tính cơ bản, đặc biệt của Phật giáo. Muốn có hai đặc tính này, người Phật tử cần thực tập Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ, được xây dựng trên Bồ đề tâm. Bồ đề tâm là tâm Bồ tát. Tâm Bồ tát là tâm đã hoàn thiện tư cách làm người, phẩm hạnh và đạo đức đã đầy đủ, không những thế mà còn lăn xả giúp đời, cứu chúng sanh. Nói cách khác, tâm Bồ tát là tâm Sáu ba la mật, tâm Bốn vô lượng, tâm Rỗng không, tâm Không ngại, tâm Không trú.Những Món Quà Ngài Để Lại: Di Sản Giáo Pháp của Ajaan Dune Atulo
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ. Sáu năm sau, thất vọng với nếp sống của một tăng sĩ thất học, ngài rời đi để học ở Ubon Ratchathani, nơi ngài kết bạn với Ajaan Singh Khantiyagamo và tái xuất gia vào tông phái Dharmayut. Không lâu sau đó, ngài và Ajaan Singh gặp Ajaan Mun, người vừa trở về vùng Đông Bắc Thái Lan sau nhiều năm lang thang. Ấn tượng với những lời dạy và pháp thực hành của Ajaan Mun, cả hai tu sĩ đều từ bỏ việc học và bắt đầu cuộc sống thiền định lang thang dưới sự hướng dẫn của ngài Ajaan Mun. Vì vậy họ là hai đệ tử đầu tiên của Ajaan Mun. Sau khi lang thang 19 năm qua rừng núi Thái Lan và Campuchia, Ajaan Dune nhận được lệnh từ cấp trên giáo hội của mình để đứng đầu một tu viện kết hợp học tập và thực hành ở Surin. Do đó, ngài đảm nhận chức vụ trụ trì của Wat Burapha, ở giữa thị trấn từ năm 1934. Ngài ở đó cho đến khi qua đời vào năm 1983. Và sau đây là những lời dạy của ngài, với cách xưng hô tôn kính là Luang Pu.Môn sử và Sử luận
Sử không chỉ thuần dữ kiện mà đi vào cùng với văn – triết để luận bàn đạo lý dân tộc, từ chính nghĩa đến giá trị nhân văn.Quan Niệm Của Phật Giáo Về Vạn Vật Nhất Thể
Cứu cánh của Phật giáo là chứng được cái tâm này, gọi là giác ngộ, thiền Trung Hoa gọi là kiến tánh thành Phật, tâm này còn có nhiều danh hiệu khác như-Chánh Biến Tri, Như Lai, Phật Thế Tôn mà ngôn ngữ con người muốn gọi thế nào đi nữa cũng chưa bao giờ diễn tả nổi hay chỉ thẳng được cái tự tánh của nó. Tâm ở đâu khó mà biết được vì tự tâm không ở, không đến, không đi, không bị chi phối giới hạn bởi không gian và thời gian vì vậy tốc độ ánh sáng hay trọng lực (gravity) cũng không ảnh hưởng tới nó được.Tâm không ở trong tim ta, không ở trong đầu óc ta, nó không phải của ta. Tự Tâm không “tâm viên, ý mã,” mà cái ngã nó tưởng là tâm mình không tịnh. Không thể tịnh cái đã tự nó đã luôn luôn tịnh. Không thể an cái an. Cho nên thiền sư nói, đưa tâm ngươi ra đây, ta sẽ an tâm cho.Ký Sự Hành Hương Nhật Bản
Kyoto là một thung lũng nhỏ có 1.500.000 dân, hơn 11 thế kỷ. Nơi đây có 18 công trình di sản văn hóa thế giới. Chùa Vàng Kinkaku-ji và chùa Thanh Thủy là hai di sản văn hóa thế giới.Những Yếu Tố Tạo Nên Sự Kỳ Vĩ Của Thắng Hoan Đại Sư
Duy Thức Học là bộ môn khó trong Giáo Lý Phật Pháp Đại Thừa, thế mà Ngài đi sâu vào đó, khai thác, khảo nghiệm. Ngài xứng đáng là : “Bậc Thầy của những bậc Thầy”, nghĩa là giảng dạy, huấn luyện tu nghiệp cho những giảng sư Phật Pháp, Sứ Giả Như Lai. Bởi vì Duy Thức Học áp dụng vào cuộc sống là lĩnh vực khó và mới, ngay cả đối với nhiều tu sỹ cho nên việc giảng dạy của Ngài trong các Khóa An Cư, Khóa Tu Bắc Mỹ càng cần thiết và bổ ích thiết thực. Giảng dạy cho Phật tử nơi các đạo tràng thì tương đối dễ nhưng giảng dạy cho tu sỹ thì khó hơn nhiều, nhưng với việc triển khai Duy Thức Học, chức năng này không khó và rất xứng đáng với vai trò của Ngài.Bài viết ngẫu nhiên
- Hàn Quốc : Hình ảnh Chùa Hoằng Pháp làm lễ tắm Phật cuối tuần
- Trung thu đến với trẻ em nghèo
- Những tâm hồn vô minh
- Đi lễ chùa, người Việt chưa hiểu về đạo Phật
- 47 NĂM, XIN ĐỪNG QUÊN !
- TP.HCM: Lễ an vị tôn tượng Đức Bổn Sư tại Việt Nam Quốc Tự
- Phật tử thiện nguyện thị xã Ninh Hòa hành hương cúng dường An cư kiết hạ.
- Thanh Hóa: Thanh niên Phật tử hiến máu cứu người
- Gửi đến những ai thường rụt rè, nhút nhát và ghen tuông, đố kỵ
- TP.HCM: Lễ húy nhật cố HT.Thích Phổ Chiếu
- Sơn Thắng: HT. Thích Thanh Hùng cảm đề bài "Thắng Phước"
- Phật Giáo trên xứ Huế
- VIẾNG DHARAMSALA VÀ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
- Viết Trong Mùa Phật Đản
- Thiền Viện Thiên Phước: Tuyên dương học sinh giỏi năm học 2012- 2013
Bình luận cuối cùng
Trương Lễ Huấn
vào lúc
09/01/2024 19:11:15
Thật vậy, con rất tâm đắc với bài viết của Thầy. Tu trong một Niệm quá đủ rồi, bởi vì một niệm khởi lên ...
Nguyễn Thị Tú Hoàng
vào lúc
23/12/2023 15:27:49
Tôi đăng ký hành hương Ấn Độ tháng 03/2024, mong cập nhập giúp, tôi sẽ đến chùa nộp hình và tiền.
Chân thành cảm ơn
vào lúc
22/12/2023 06:21:25
Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Nghĩa
vào lúc
20/12/2023 04:37:00
Còn là 1 tín chúng tại Cần Thơ đã có lòng khát ngưỡng thọ pháp y từ lâu nhưng vì chướng duyên giá sự nên ...
Lê Thị Thanh Tùng (Pháp danh: Ngọc Trinh)
vào lúc
14/12/2023 11:03:11
Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni Chùa Giác Ngộ
Con là Phật tử ở Quảng Bình.
Con muốn được thỉnh 2 cuốn sách: Lễ lạy 500 ...
Chính Phan Chí
vào lúc
26/11/2023 13:54:45
Quá tốt
Le Hoang
vào lúc
18/10/2023 10:46:22
"Duy Thức Tam Thập Tụng là một tác phẩm được viết bằng chữ Hán gồm 30 bài kệ đi cùng với sự giải thích ...
Vinh
vào lúc
18/10/2023 10:43:03
Mô Phật, bản này tác giả dịch từ cuốn sách nào cho con xin nguồn với ạ. con cần xem bản nguyên tác để trích ...
Bích hoa
vào lúc
01/10/2023 22:19:54
Em xin đăng kí tham gia lớp học nấu chay thứ 7 chủ nhật.em cảm ơn ạ
Đỗ Phú Trần Tình
vào lúc
01/07/2023 23:05:44
Bạn nên đọc bài phản biện của sư Chánh Minh đi. Sư Chánh Minh đã chỉ ra từng chỗ sai của thầy Hạnh Bình. Thầy ...
Đăng nhập
Tác giả ngẫu nhiên
Bài đã viết:
- “Tiếng Việt từ TK 17: các cách dùng nói lăm, nói lắp và tlăm tiếng/nói tlăm tiếng và trăm hay không bằng tay quen” (phần 43)
- “Tiếng Việt từ TK 17: các cách dùng trống một, giữ/cầm canh, nhà điếm/ dỏ, trắc ảnh, thì - giờ” (phần 42)
- Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng Trì Trì, mlồi/mlồ, Chiêm Thành - Cham và *Lâm (Ấp) (phần 41)
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đặc biệt a phien - a phiền - a phiện - á phiên - nhã phiên - nha phiến” (phần 40B)
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đặc biệt con nít - con ít, hắt xơi” (phần 40)
- Phương pháp giải quyết vấn đề và Tứ Diệu Đế (phần 2)
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng Mỵ (Mị) Chu, Diễn Chu, bồ cu, bồ câu … Bùi Chu” (phần 39)
- “Tiếng Việt từ TK 17: vài ghi nhận thêm về thì giá, trao đổi tiền bạc các loại, lợi - lời - lãi … (phần 21C)”
- “Tiếng Việt từ TK 17: một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes” (phần 37)
- Vài đóng góp của tự điển Béhaine trong văn hoá ngôn ngữ Việt Nam
- “Tiếng Việt từ TK 17: vừng, mè ... tự vị, tự vựng và tự điển” (phần 36)
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đừng, chẳng khi nào đừng, chẳng có khi đừng” (phần 35)
- “Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - tới Kinh Tin Kính thời Philiphê Bỉnh - vài nhận xét thêm (phần 26C)”
- “Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - Kinh Lạy Cha và Philiphê Bỉnh - vài nhận xét thêm (phần 5E)”
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đã, đã đã, nên tật, đã tật” (phần 34)