Khóa tu và nghi thức Xuất gia gieo duyên
“Xuất gia gieo duyên” là cơ hội giúp cho mọi người, nhất là các bạn trẻ muốn trở thành người tu nhưng không đoan chắc rằng mình có thể đi trọn vẹn sự chọn lựa đó, hiểu thấu được ý nghĩa, giá trị, lợi ích của người xuất gia, từ đó, dễ dàng quyết định mục đích sống và lý tưởng dấn thân.
Bài mới
Sơ Quát về ba pháp môn Chỉ-Quán-Thiền trong kinh Thủ Lăng Nghiêm qua Duy Thức Học
Pháp Tứ Niệm Xứ Quán giúp tâm niệm được an trú mà liễu tường được các nhân duyên sinh khởi, rõ được 4 chỗ Thân- Thọ- Tâm- Pháp đều không có thực thể, không có tự tánh. Quán liễu được như vậy khiến giúp chủ thể Năng Quán không còn khởi sinh. Điều này có ý nghĩa là nay Đệ Lục Ý thức của hành giả đã thông tỏ được Lý Nhân Duyên, đã nhận biết, phân biệt tỏ tường được về tính cách như huyễn, như mộng...của vạn sự, vạn vật, của 3 hòa hiệp Căn-Trần-Thức nên phần Tịnh thức (nơi Ý thức) không còn có bất kỳ chấp luyến nào nơi trần cảnh và cả nơi khởi sinh tâm Ý thức. Hai bên Sở thức và Năng thức đều được buông xả, tâm thức chấp Ngã không còn hiện diện, nên có thể gọi là tâm thức hành giả nay đã vượt qua Đệ Thất Mạt Na thức mà vào đến Đệ Bát A Lại Da thức. Chỗ này được xem là đã Kiến Đạo, tương đương với giai vị Sơ Địa (Hoan Hỷ Địa) của Thập Địa Bồ Tát bên Bồ Tát thừa, hoặc được xem tương đương với giai vị Tu Đà Hoàn (Nhập Lưu) bên Thanh Văn thừa.Khóa tu và nghi thức Xuất gia gieo duyên
“Xuất gia gieo duyên” là cơ hội giúp cho mọi người, nhất là các bạn trẻ muốn trở thành người tu nhưng không đoan chắc rằng mình có thể đi trọn vẹn sự chọn lựa đó, hiểu thấu được ý nghĩa, giá trị, lợi ích của người xuất gia, từ đó, dễ dàng quyết định mục đích sống và lý tưởng dấn thân.Tưởng Niêm Ân Sư Thượng Đỗng Hạ Tuyên
“Từ bi, Trí tuệ là hai đặc tính cơ bản, đặc biệt của Phật giáo. Muốn có hai đặc tính này, người Phật tử cần thực tập Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ, được xây dựng trên Bồ đề tâm. Bồ đề tâm là tâm Bồ tát. Tâm Bồ tát là tâm đã hoàn thiện tư cách làm người, phẩm hạnh và đạo đức đã đầy đủ, không những thế mà còn lăn xả giúp đời, cứu chúng sanh. Nói cách khác, tâm Bồ tát là tâm Sáu ba la mật, tâm Bốn vô lượng, tâm Rỗng không, tâm Không ngại, tâm Không trú.Những Món Quà Ngài Để Lại: Di Sản Giáo Pháp của Ajaan Dune Atulo
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ. Sáu năm sau, thất vọng với nếp sống của một tăng sĩ thất học, ngài rời đi để học ở Ubon Ratchathani, nơi ngài kết bạn với Ajaan Singh Khantiyagamo và tái xuất gia vào tông phái Dharmayut. Không lâu sau đó, ngài và Ajaan Singh gặp Ajaan Mun, người vừa trở về vùng Đông Bắc Thái Lan sau nhiều năm lang thang. Ấn tượng với những lời dạy và pháp thực hành của Ajaan Mun, cả hai tu sĩ đều từ bỏ việc học và bắt đầu cuộc sống thiền định lang thang dưới sự hướng dẫn của ngài Ajaan Mun. Vì vậy họ là hai đệ tử đầu tiên của Ajaan Mun. Sau khi lang thang 19 năm qua rừng núi Thái Lan và Campuchia, Ajaan Dune nhận được lệnh từ cấp trên giáo hội của mình để đứng đầu một tu viện kết hợp học tập và thực hành ở Surin. Do đó, ngài đảm nhận chức vụ trụ trì của Wat Burapha, ở giữa thị trấn từ năm 1934. Ngài ở đó cho đến khi qua đời vào năm 1983. Và sau đây là những lời dạy của ngài, với cách xưng hô tôn kính là Luang Pu.Môn sử và Sử luận
Sử không chỉ thuần dữ kiện mà đi vào cùng với văn – triết để luận bàn đạo lý dân tộc, từ chính nghĩa đến giá trị nhân văn.Quan Niệm Của Phật Giáo Về Vạn Vật Nhất Thể
Cứu cánh của Phật giáo là chứng được cái tâm này, gọi là giác ngộ, thiền Trung Hoa gọi là kiến tánh thành Phật, tâm này còn có nhiều danh hiệu khác như-Chánh Biến Tri, Như Lai, Phật Thế Tôn mà ngôn ngữ con người muốn gọi thế nào đi nữa cũng chưa bao giờ diễn tả nổi hay chỉ thẳng được cái tự tánh của nó. Tâm ở đâu khó mà biết được vì tự tâm không ở, không đến, không đi, không bị chi phối giới hạn bởi không gian và thời gian vì vậy tốc độ ánh sáng hay trọng lực (gravity) cũng không ảnh hưởng tới nó được.Tâm không ở trong tim ta, không ở trong đầu óc ta, nó không phải của ta. Tự Tâm không “tâm viên, ý mã,” mà cái ngã nó tưởng là tâm mình không tịnh. Không thể tịnh cái đã tự nó đã luôn luôn tịnh. Không thể an cái an. Cho nên thiền sư nói, đưa tâm ngươi ra đây, ta sẽ an tâm cho.Ký Sự Hành Hương Nhật Bản
Kyoto là một thung lũng nhỏ có 1.500.000 dân, hơn 11 thế kỷ. Nơi đây có 18 công trình di sản văn hóa thế giới. Chùa Vàng Kinkaku-ji và chùa Thanh Thủy là hai di sản văn hóa thế giới.Những Yếu Tố Tạo Nên Sự Kỳ Vĩ Của Thắng Hoan Đại Sư
Duy Thức Học là bộ môn khó trong Giáo Lý Phật Pháp Đại Thừa, thế mà Ngài đi sâu vào đó, khai thác, khảo nghiệm. Ngài xứng đáng là : “Bậc Thầy của những bậc Thầy”, nghĩa là giảng dạy, huấn luyện tu nghiệp cho những giảng sư Phật Pháp, Sứ Giả Như Lai. Bởi vì Duy Thức Học áp dụng vào cuộc sống là lĩnh vực khó và mới, ngay cả đối với nhiều tu sỹ cho nên việc giảng dạy của Ngài trong các Khóa An Cư, Khóa Tu Bắc Mỹ càng cần thiết và bổ ích thiết thực. Giảng dạy cho Phật tử nơi các đạo tràng thì tương đối dễ nhưng giảng dạy cho tu sỹ thì khó hơn nhiều, nhưng với việc triển khai Duy Thức Học, chức năng này không khó và rất xứng đáng với vai trò của Ngài.Bài viết ngẫu nhiên
- Diễn văn Phật Đản PL. 2561 DL.2017 của HT Chủ tịch HĐTS
- Thông báo: V/v tổ chức Đại giới đàn Vĩnh Đạt năm 2018
- Thiết lập bản đồ tâm thức
- Những cánh hoa trí tuệ - Phần 13
- Tranh Dâng Mùa Vu Lan (Viết và Vẽ Trên Máy Tính )
- Tuyển Cộng tác viên cho website Chùa Vạn Đức.
- Đêm ca múa nhạc Phật giáo: “Việt Nam Phật tâm ca”
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng Mỵ (Mị) Chu, Diễn Chu, bồ cu, bồ câu … Bùi Chu” (phần 39)
- Thăm cung điện cao nhất thế giới- Potala
- Măng xào chua ngọt chay
- Họp Tổ công tác liên ngành hướng dẫn, giúp đỡ GHPGVN chuẩn bị, tổ chức Đại lễ Vesak 2014 lần 4
- Hà Nội: Khóa tu Mùa hè lần thứ 10 tại Chùa Đình Quán (ngày thứ 1)
- Giới Thiệu Phật Giáo Thời Đại Nhà Lý
- Thông Báo Chính Thức về Chương Trình Đại Giới Đàn Cam Lộ
- Kim Minh Châu Nam
Bình luận cuối cùng
Trương Lễ Huấn
vào lúc
09/01/2024 19:11:15
Thật vậy, con rất tâm đắc với bài viết của Thầy. Tu trong một Niệm quá đủ rồi, bởi vì một niệm khởi lên ...
Nguyễn Thị Tú Hoàng
vào lúc
23/12/2023 15:27:49
Tôi đăng ký hành hương Ấn Độ tháng 03/2024, mong cập nhập giúp, tôi sẽ đến chùa nộp hình và tiền.
Chân thành cảm ơn
vào lúc
22/12/2023 06:21:25
Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Nghĩa
vào lúc
20/12/2023 04:37:00
Còn là 1 tín chúng tại Cần Thơ đã có lòng khát ngưỡng thọ pháp y từ lâu nhưng vì chướng duyên giá sự nên ...
Lê Thị Thanh Tùng (Pháp danh: Ngọc Trinh)
vào lúc
14/12/2023 11:03:11
Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni Chùa Giác Ngộ
Con là Phật tử ở Quảng Bình.
Con muốn được thỉnh 2 cuốn sách: Lễ lạy 500 ...
Chính Phan Chí
vào lúc
26/11/2023 13:54:45
Quá tốt
Le Hoang
vào lúc
18/10/2023 10:46:22
"Duy Thức Tam Thập Tụng là một tác phẩm được viết bằng chữ Hán gồm 30 bài kệ đi cùng với sự giải thích ...
Vinh
vào lúc
18/10/2023 10:43:03
Mô Phật, bản này tác giả dịch từ cuốn sách nào cho con xin nguồn với ạ. con cần xem bản nguyên tác để trích ...
Bích hoa
vào lúc
01/10/2023 22:19:54
Em xin đăng kí tham gia lớp học nấu chay thứ 7 chủ nhật.em cảm ơn ạ
Đỗ Phú Trần Tình
vào lúc
01/07/2023 23:05:44
Bạn nên đọc bài phản biện của sư Chánh Minh đi. Sư Chánh Minh đã chỉ ra từng chỗ sai của thầy Hạnh Bình. Thầy ...
Đăng nhập
Tác giả ngẫu nhiên
Bài đã viết:
- “Tiếng Việt từ TK 17: các cách dùng nói lăm, nói lắp và tlăm tiếng/nói tlăm tiếng và trăm hay không bằng tay quen” (phần 43)
- “Tiếng Việt từ TK 17: các cách dùng trống một, giữ/cầm canh, nhà điếm/ dỏ, trắc ảnh, thì - giờ” (phần 42)
- Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng Trì Trì, mlồi/mlồ, Chiêm Thành - Cham và *Lâm (Ấp) (phần 41)
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đặc biệt a phien - a phiền - a phiện - á phiên - nhã phiên - nha phiến” (phần 40B)
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đặc biệt con nít - con ít, hắt xơi” (phần 40)
- Phương pháp giải quyết vấn đề và Tứ Diệu Đế (phần 2)
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng Mỵ (Mị) Chu, Diễn Chu, bồ cu, bồ câu … Bùi Chu” (phần 39)
- “Tiếng Việt từ TK 17: vài ghi nhận thêm về thì giá, trao đổi tiền bạc các loại, lợi - lời - lãi … (phần 21C)”
- “Tiếng Việt từ TK 17: một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes” (phần 37)
- Vài đóng góp của tự điển Béhaine trong văn hoá ngôn ngữ Việt Nam
- “Tiếng Việt từ TK 17: vừng, mè ... tự vị, tự vựng và tự điển” (phần 36)
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đừng, chẳng khi nào đừng, chẳng có khi đừng” (phần 35)
- “Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - tới Kinh Tin Kính thời Philiphê Bỉnh - vài nhận xét thêm (phần 26C)”
- “Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - Kinh Lạy Cha và Philiphê Bỉnh - vài nhận xét thêm (phần 5E)”
- “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đã, đã đã, nên tật, đã tật” (phần 34)