Các kinh về đạo đức: 06. Lời vàng Phật dạy

Đã đọc: 1351           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font

6. LỜI VÀNG PHẬT DẠY

 

I. PHẨM SONG ĐỐI

(Yamaka-vagga)

1-2. Ý làm chủ hành vi tạo tác

Ý dẫn đầu, thiện ác tạo ra

Nếu dùng tâm ý ác tà

Nói năng, hành động khổ sa vào mình.

Như xe chở lăn nhanh theo bánh;

Bánh đi đâu, xe đến liền theo

Mỗi khi tâm thiện đã gieo

Quả lành trổ, giống bóng đeo theo hình.

3. Ai ôm hận bị người hãm hại

“Nó đánh tôi và chửi mắng tôi”

“Thắng tôi, cướp đoạt của tôi”

Nhớ hoài bất hạnh, khó nguôi hận thù.

4. Ai bỏ được hận thù bị hại:

“Nó đánh tôi và chửi mắng tôi”

“Thắng tôi, cướp đoạt của tôi”

Hận thù tan biến, nguôi ngoai cõi lòng.

5. Trả thù hận bằng tâm oán giận

Muôn kiếp dài khó đặng thành công

Từ bi chuyển hóa thù chung

Đây là định luật công bằng xưa nay.

6. Trong kiếp sống ai ngờ cái chết

Rình rập ta chẳng sót mảy may

Người nào giác ngộ điều này

Hơn thua, tranh chấp... dứt ngay tức thì.

7. Ai đắm nhiễm năm điều dục lạc

Chẳng giữ tâm, làm chủ giác quan

Uống ăn thái quá hại thân

Tánh hay lười biếng, nhọc nhằn qua loa.

Người như thế bị ma đánh bại

Cũng giống như gió thổi ngã cây.

Khổ đau, bất lực nào hay

Đều do buông thả, đắm say sắc trần.

8. Không nhiễm đắm, quán thân nhơ uế

Giữ gìn tâm, làm chủ giác quan

Uống ăn tiết độ, siêng năng

Vững vàng như núi trước ngàn bão giông.

9. Dù khoát áo cà-sa đĩnh đạc

Mà tâm còn uế trược tham, sân

Sống không chân thật, buông lung

Làm sao xứng hạnh sa-môn sáng ngời?  O

10. Ai giải phóng tham, sân, trược uế

Sống thanh cao, giữ giới nghiêm minh

Chánh chân, làm chủ được mình

Người tu như thế thật tình đáng khen.

11. “Không chân thật lại cho chân thật

Chân thật thì lầm tưởng dối gian”

Tà tư, tà hạnh làm nhân

Do vậy khó đạt chánh chân trong đời.

12. “Cái chân thật thì cho chân thật

Không chân thì khẳng định không chân”

Chánh tư, chánh hạnh làm nhân

Nhờ vậy đạt được chánh chân trong đời.

13. Nhà vụng lợp có nhiều lỗ dột

Một trận mưa làm ướt tả tơi.

Người không tu tập, mãi chơi

Dục tham xâm nhập, cả đời khổ đau.

14. Nhà lợp khéo, chỗ nào cũng kín

Nhiều mưa to chẳng ảnh hưởng chi.

Với người tinh tấn tu trì

Dục tham dứt sạch, có gì phải lo?

15. Kiếp này khổ, kiếp sau càng khổ

Kẻ ác gian chịu khổ hai đời

Quả sầu đeo bám khôn nguôi,

Nhớ ác, day dứt khó rời khỏi ta.

16. Kiếp này sướng, kiếp sau càng sướng

Người đức cao được hưởng phước vui

Thiện nhân trổ quả còn hoài

Nhớ thiện, an lạc tràn đầy trong tâm.

17. Kiếp này khổ, kiếp sau than khổ

Gieo ác nhân phải khổ hai đời

Lương tâm dằn vặt tơi bời

Rơi vào cõi dữ, than hoài chẳng xong.

18. Kiếp này sướng, kiếp sau càng sướng

Làm phúc thì sung sướng hai đời

Phúc do làm thiện tuyệt vời

Sanh về cõi thiện, thảnh thơi lâu dài.

19. Làu thông cả kho kinh sâu sắc

Không thực hành, phóng dật ích chi?

Khác gì như kẻ làm thuê

Chăn bò cho chủ, có gì của ta?

20. Người nói ít nhưng hành miên mật

Bỏ tham, sân; tỉnh giác, thong dong

Hai đời dính mắc không còn

Người này xứng hạnh sa-môn sáng ngời. O

 

II. KHÔNG PHÓNG DẬT

(Appamāda-vagga)

21. Không phóng dật là con đường sống

Kẻ buông lung làm hỏng cuộc đời.

Không còn phóng dật, sáng ngời

Buông lung như kẻ chết rồi, ích chi.

22. Sống bất tử với đường tỉnh thức

Thói buông lung là vực tử sanh.

Định thiền, giới hạnh, tinh cần

Ung dung đạo giác, an nhàn thân tâm.

23. Người có trí siêng tu thiền định

Luôn tinh cần thức tỉnh ngày đêm

Niết-bàn vô thượng xứng tên

Khổ đau, trói buộc không còn đeo mang.

24. Luôn tinh tấn, tự điều, chính niệm

Nương pháp màu, đức hạnh sáng trong,

Giữ mình, dứt bỏ buông lung

Tiếng lành, phước tốt gia tăng mỗi ngày.

25. Luôn nỗ lực vượt qua phóng dật

Tự điều thân, chủ các giác quan

Trí nhân như đảo vững vàng

Bão giông không thể ngập tràn được đâu.

26. Kẻ thiếu trí đam mê phóng dật

Bám nghiệp duyên, rồi gặt quả sầu

Trí nhân tinh tấn trước sau

Như gìn của báu làm giàu bản thân.

27. Cảnh hưởng thụ không thèm màng tới

Dục lạc đời chẳng luyến ái tham.

Siêng tu thiền định, chánh tâm,

Niềm vui sâu lắng đạt thành khó chi.

28. Người có trí dẹp tan phóng dật

Trên lầu cao tuệ giác nhìn trông

Không sầu khổ, hết buồn vương

Thương người ngu dưới kiếp hồng trần kia. O

29. Sống tinh tấn giữa người phóng đãng

Tỉnh thức luôn bên cạnh kẻ say

Trí nhân như ngựa khéo nài

Bỏ xa ngựa yếu cả bầy sau lưng.

30. Như Đế Thích do tu tinh tấn

Khi tái sanh làm chủ cõi thiên

Không còn phóng dật được khen.

Đời hay chỉ trích kẻ ghiền buông lung.

31. Tâm luôn thích niềm vui tinh tấn

Sợ buông lung phá hạnh thanh cao

Tu theo pháp Phật nhiệm mầu

Đốt tiêu trói buộc, sầu đau bao đời.

32. Tâm luôn thích niềm vui tinh tấn

Sợ buông lung phá hạnh thanh cao

Tu theo pháp Phật nhiệm mầu

Niết-bàn sẽ chứng, khổ sầu lánh xa. O

 

III. PHẨM TÂM

(Citta-vagga)

33. Tâm dao động, sầu lo, sợ hãi

Khó giữ gìn, vùng vẫy theo duyên.

Trí nhân làm thẳng tâm này

Như người thợ khéo uốn tên thẳng hàng.

34. Như tôm cá vất ngoài thủy giới

Luôn vẫy vùng hướng tới nước nguồn

Tâm tu vẫy mạnh thoát trần

Quyết lòng dẹp sạch ma quân não phiền.

35. Tâm phàm tục chuyền cành như khỉ

Theo thú vui thành thị, xóm làng.

Lành thay, làm chủ được tâm

Giữ tâm định tĩnh, bình an lâu dài.

36. Tâm vi tế, khó nhìn, khó thấy

Theo dục tham, thoải mái quay cuồng

Trí nhân làm chủ được tâm

Niềm vui nội tại phủ trùm khắp nơi. O

37. Đâu cần phải chạy xa, sống ẩn

Vào hang sâu, hóa hiện không thân.

Chi bằng điều phục được tâm

 Vượt qua trói buộc của ngàn ma quân.

38. Đối với kẻ tâm không an trụ

Pháp nhiệm mầu khó tỏ nguồn khơi

Niềm tin rung động, chơi vơi

Còn nguồn trí tuệ rạng ngời khó thông.

39. Khi tâm thoát dục tham, vướng mắc

Buông hận thù, ganh ghét, hờn ghen

Vượt trên thiện ác nhị nguyên

Xứng hàng tỉnh thức, không còn sầu lo.

40. Thân năm uẩn như sành dễ bể

Giữ gìn tâm như thể thành trì

Vung gươm trí tuệ diệt si

Thắng ma quân xấu, chớ vì vinh quang.

41. Thân vô thường, chẳng bao lâu nữa

Nằm vô tri trong cỗ quan tài

Khi tâm thoát khỏi thân này

Thân như khúc gỗ chẳng xài vào đâu.

42. Người ác độc diệt trừ đối thủ

Kẻ oan gia trả đũa oan gia

Không bằng tâm ác hại ta

Trầm luân muôn kiếp, đường tà lún sâu.

43. Cha mẹ muốn cho con hưởng phước

Thương cỡ nào, chẳng được dài lâu

Tâm lành, nhân tốt gieo sâu

Tự mình tạo dựng, quả mau lớn dần. O

 

 

 

 

IV. PHẨM HOA

(Puppha-vagga)

44. Ai chinh phục địa cầu, thiên giới

Vượt lên trên cả cõi Diêm-ma[1]?

Sao bằng ngộ pháp Phật-đà[2]

Như người khéo kết tràng hoa đẹp màu.

45. Bậc hữu học[3] vượt qua trời đất[4]

Vượt lên trên cả cõi Diêm-ma

Lại thông chánh pháp Phật-đà

Như người khéo kết tràng hoa đẹp màu.

46. Khi tỏ ngộ thân như bọt nước

Ảo ảnh như điện chớp trên không

Bẻ tan tên của ma quân

Vượt tầm thần chết hàng ngàn dặm xa.

 

47. Kẻ say nhặt các hoa dục lạc

Bị tử thần vây bắt, kéo lôi

Như cơn lũ dữ cuốn trôi

Cả làng trong lúc ngủ vùi đêm thâu.

48. Kẻ say nhặt các hoa dục lạc

Nhiễm đắm rồi dính chặt khó buông

Ham vui chưa thỏa nguồn cơn

Tử thần đến bắt khó thương lượng gì.

49. Như ong biết bám hoa thưởng thức

Không hại gì đến sắc và hương

Giữ gìn hoa, hút nhụy xong

Cũng như bậc thánh vào làng hóa duyên.

50. Không bới móc lỗi lầm người khác

Chuyện đã làm có đạt hay không?

Nhìn mình hành động đục, trong

Vô tình, cố ý, đừng mong phạm vào.   O

51. Như hoa đẹp bên ngoài hấp dẫn

Mà bên trong chẳng đậm mùi hương

Lời hay, ý tưởng lạ lùng

Không làm vô ích, đáng thương vô cùng.

52. Như hoa đẹp to tròn, hấp dẫn

Dạng hình thù, lại đượm mùi hương

Lời hay, ý tưởng lạ lùng

Có làm ắt được quả tròn mười mươi.

53. Như một đống hoa tươi các loại

Nhiều tràng hoa được kết xâu nên

Cũng vầy trong chốn hồng trần

Thân làm bao việc quý lành đáng khen.

54. Hương mạt-lỵ[5], chiên-đàn[6] thơm phức

Cả nước hoa chẳng ngược gió bay.

Hương người đạo đức thẳng ngay,

Bay xa ngược gió, tháng ngày còn thơm.

55. Hoa vũ quý[7], chiên-đàn thơm ngát

Hương già-la[8], sen sắc hồng tươi

 

Giới hương số một trên đời

Hương hoa... chỉ sánh một mười mà thôi.

56. Hương hoa đẹp không nhiều giá trị

Cả chiên-đàn gỗ quý vậy thôi.

Hương người đức hạnh sáng ngời

Hòa cùng mây gió khắp trời ngát hương.

57. Người giới hạnh thanh cao đúng mực

Gìn thân tâm, chẳng chút buông lung

Đạt chơn giải thoát, trí thần

Quân ma không thể thấy đường tới lui.

58. Giữa bãi rác bên đường dơ bẩn

Có hoa sen thoang thoảng mùi hương.

Giữa đời phàm tục nhiễu nhương,

Có người trí tuệ, tình thương sáng ngời.

59. Giữa phàm tục, bao người đau khổ

Bởi nhiễm tham, không tỏ lý chân

Có người Phật tử thực hành

Sáng ngời trí tuệ, tỏ nguồn tâm linh. O

 

V. PHẨM NGU

(Bāla-vagga)

60. Người trằn trọc, đêm buồn thăm thẳm

Kẻ mỏi chân ngao ngán đường dài

Người ngu, chánh pháp ngoài tai

Luân hồi mất hút, biết ngày nào ra?

61. Trong cuộc sống, tìm mà chưa gặp

Bạn đồng hành tâm đắc, hơn mình,

Chớ nên gần kẻ vô minh

Khổ đau, lận đận, bám rình khó buông.

62. Bệnh chấp ngã vào con, tài sản

Nào con ta, tài sản của ta...

Khổ sầu đeo bám chẳng tha

Người ngu nên hiểu: Tôi là chẳng-tôi.

63. Ai ngu dở biết mình còn dốt

Nhờ vậy mà chậm lục hết dần

Kẻ “đần” lại tưởng mình “khôn”

“Chí ngu” như vậy không còn người hơn!

 

64. Người ngu tối có gần người trí

Không học theo chánh pháp chánh chân

Khác gì muỗng với vị canh

Trọn đời cũng chẳng thấm nhuần vị hương!

65. Người ngu dốt khéo gần người trí

Học Phật ngôn, đạo lý hiểu rành

Cũng như lưỡi nếm vị canh

Vị hương ngon ngọt thấm nhuần trong thân. O

66. Người thiếu trí không màng thực tập

Bản ngã thành kẻ ác hại thân

Bỏ rơi việc thiện, đức nhân

Đắng cay quả xấu đeo mang trọn đời.

67. Không hối hận việc làm bất chánh

Không vượt qua quán tính thói quen

Có ngày đẫm lệ, sầu than

Một khi quả xấu chín vàng mới hay.

68. Với việc thiện làm rồi không tiếc

Dù cho người chẳng biết đền ơn

Hân hoan, vui vẻ, đẹp lòng

Phước lành trổ quả đón mừng thiện nhân.

69. Hành vi ác khi chưa trổ quả

Nhiều người ngu nghĩ nó ngọt ngon

Đến khi quả xấu chín hồng

Khổ đau, bất hạnh, khóc ròng ngày đêm.

70. Tu khổ hạnh năm này tháng nọ

Đứng một chân, ít ngủ, ít ăn

Một phần mười sáu chẳng bằng

Phước người thấu hiểu rõ ràng duyên sinh. O

71. Nghiệp ác dữ chưa liền trổ quả

Như sữa tươi đâu đã đong ngay

Thầm theo đốt cháy người sai

Như than hồng núp dưới hơi tro tàn.

72. Kẻ ngu muội tham danh hư ảo

Thường sống trong khổ não đêm ngày

Vận may tổn hại lâu dài

Nhức đầu, căng thẳng nhớ hoài nỗi đau.

73. Ham danh ảo chút nào tương xứng

Ngồi trước trên các hạng Tỳ-kheo

Lấn quyền ngay cả trụ trì

Muốn người nể sợ quyền uy của mình.

74. Gây ngộ nhận cả Tăng lẫn tục[9]

Chứng minh rằng ta tác tạo nên

Việc làm lớn nhỏ chuyên quyền…

Cống cao, tham vọng bám chuyền người ngu.

75. Đường tục lụy dẫn về phàm tục

Đường niết-bàn nẻo giác hướng về

Hiểu thông hai ngõ hết mê

Chẳng màng danh lợi, hành trì viễn ly. O

 

VI. PHẨM HIỀN TRÍ

(Paṇḍita-vagga)

76. Gặp người trí chỉ điều non kém

Lòng biết ơn, cố gắng sửa sai

Kết thân người trí thật hay

Dẫn đường kho báu tại ngay đời này.

77. Bậc hiền trí giúp người sửa lỗi

Bỏ đường tà, dẫn lối đường ngay

Người lành quý trọng, chắp tay

Còn phường xấu ác ghét cay vô cùng.

78. Chớ kết bạn với phường xấu ác

Kẻ dối gian, cay độc, tiểu nhân.

Hãy thân với bạn hiền lành

Học theo gương hạnh chánh chân, sửa mình. O

79. Người có trí thấm nhuần Phật pháp

Tâm say niềm hạnh phúc cao sâu

Cõi tâm thanh tịnh, tỏ làu

Ngày đêm an lạc pháp mầu thánh nhân.

80. Người làm ruộng làm mương dẫn nước

Còn thợ tên trau chuốt mũi tên

Thợ cây uốn ván thẳng liền

Người khôn làm chủ cái tâm của mình.

81. Như tảng đá vững vàng trước bão

Người trí hiền làm chủ cái tâm

Điềm nhiên trước cảnh phũ phàng

Khen chê chẳng động, không màng thị phi.

82. Người có trí thích nghe Phật pháp

Gìn an vui, hạnh phúc, thong dong

Như hồ sâu thẳm, nước trong

Không gì khuấy đục cõi lòng tịnh thanh.

83. Bậc hiền trí không còn chấp mắc

Người tịnh thanh bỏ được dục tham

Sống trong nghịch cảnh, thuận duyên

Tâm không dao động, vui buồn chẳng xao.

84. Chẳng vì ngã hay người nào khác

Mà tạo điều độc ác, gian tham

Chẳng vì con cái, giàu sang…

Chẳng vì ngôi vị trên ngàn muôn dân…

Người có trí công bằng, ngay thật

Giới hạnh tròn, đạo đức thanh cao

Noi theo chánh pháp cao sâu

Phát huy tuệ giác, làm giàu lương tâm.

85. Đại đa số quẩn quanh ba cõi

Ít có người vượt khỏi bờ mê

Đa phần chẳng chịu trở về

Con đường giác ngộ đề huề chánh chân.

86. Với những kẻ thực hành pháp Phật

Khéo giảng tuyên, tỉnh thức cõi tâm

Đến bờ giác ngộ, niết-bàn

Vẫy chào đau khổ, tử sinh bao đời.

87. Bậc hiền trí bỏ buông ái dục

Hướng tâm về tỉnh giác, niết-bàn

Không còn ngu dốt, sân, tham

Trên đường hướng thượng, căn lành trồng sâu. O

88. Hãy vui hướng niết-bàn tịnh lạc

Không sở hữu, bỏ dục, ái, tham

Trí nhân rửa sạch nội tâm

Không còn cấu uế, đầy tràn niềm an. 

89. Không chấp thủ với tâm chân chánh

Bỏ ái tham, tu bảy giác chi

Không còn lậu hoặc, vướng gì

Sống trong an tịnh, sáng ngời nhân gian. O

 

VII. PHẨM A LA HÁN

(Arahanta-vagga)

90. Người đã thoát đường vào sống chết

Chặt gông cùm, xiềng xích đập tan

Ưu phiền đã thoát khỏi tâm

Không còn phiền não, an nhàn đến đi.

91. Người chính niệm, tinh cần, tỉnh giác

Lìa não phiền, ái dục chẳng màng

Đó đây, vui sống độc thân

Bỏ ao, con ngỗng ngút ngàn trời cao.

92. Không màng đến tiền tài, danh vọng

Làm chủ tâm, ăn uống vừa chừng

Lòng không, vô tướng, thong dong

Xả buông chấp mắc, thoát vòng trần gian

Trời cao, chim giữa mây ngàn

Không gian mất hút, dấu chân khó tìm.

93. Ai lậu hoặc, ái tham dứt sạch

Nhiễm đắm không, tự tại luôn luôn

“Lòng không, vô tướng, thong dong”

Như chim giữa chốn hư không khó tìm.

94. Người điều phục sáu căn, cảm giác

Như ngựa thuần tuân phục chủ nhân

Dứt trừ lậu hoặc, mạn, tham

Xứng A-la-hán giữa hàng nhân thiên.

95. Rộng như đất, tâm không oán hận

Như cột kia trước cảnh thịnh suy

Hồ tâm lắng sạch tham, si

Bậc A-la-hán sáng ngời nhân gian.    O

96. Người đạt được tâm an, ý tốt

Lời lẽ lành, hạnh nghiệp đáng khen

Thong dong, trí tuệ, chánh chân

Sống trong tịnh lạc, ngập tràn an vui.

97. Không mê tín, cắt buông hệ lụy[10]

Rèn thức tâm, tỏ ngộ vô vi[11]

Thực hành vô chấp, xả ly…

Là người tối thượng sánh vì núi cao.

98. Dù sống tại thôn quê, làng nhỏ

Hay rừng sâu, núi cả, đồi cao

A-la-hán sống chỗ nào

Thời dân nơi đó thấm sâu đạo vàng.

99. Thật thú vị, núi rừng xanh thẳm

Chỗ người phàm chẳng dám bén chân

Những người bỏ dục, lìa tham

Chọn nơi trú ngụ, chẳng màng lợi danh. O

 

VIII. PHẨM NGÀN

(Sahassa-vagga)

100. Dẫu có nói ngàn lời vô ích

Chẳng dính gì hạnh phúc cho đời

Chi bằng chỉ thốt ít lời

Thấm nhuần đạo lý, giúp người bình an.

101. Dẫu có đọc trăm ngàn câu kệ

Chẳng có gì liên hệ niết-bàn

Chi bằng nói pháp ngàn vàng

Nghe xong lợi lạc, bình an cõi lòng.

102. Dẫu có giảng rất nhiều bài pháp

Không giúp người bỏ chấp, hết sầu

Sao bằng lời pháp nhiệm mầu

Nghe xong hạnh phúc thật lâu trong người. O

103. Người thắng trận trước ngàn quân giặc

Đem khải hoàn, hạnh phúc nước nhà

Chẳng bằng người thắng được “ta”

Chiến công oanh liệt, sâu xa tuyệt vời.

104. Tự chiến thắng vượt trên tất cả

Hơn kẻ thù, giặc giã biên cương

Lành thay, điều phục bản thân

Sống trong hạnh phúc, không còn sầu đau.

105. Dù quyền lực như trời, thần, quỷ

Hay ma vương, kẻ dữ ngang tàng

Không người có thể sánh bằng

Một người tự thắng, không còn vọng tâm.

106. Dù cúng tế hàng ngàn vàng thẻ

Cho thần linh, Thượng đế trăm năm

Sao bằng ủng hộ thánh nhân

Xóa mê, khai ngộ, dẫn đàng an vui.

107. Dù thờ lửa trăm năm rừng thẳm

Cũng không bằng cúng hạng chân nhân

Cúng dường người trí tốt hơn

Trăm năm tế tự mơ màng phước duyên.

108. Dù hiến tế trăm năm Thượng đế

Cầu phước lành, tuổi thọ dài lâu

Chẳng bằng được một phần tư

Lễ người chánh trực, tâm từ thường gieo.

109. Ai cung kính chân tu đạo lực

Thực hành theo; phước đức sanh sôi:

Dồi dào sức khỏe, đẹp tươi,

Sống lâu, hạnh phúc, thảnh thơi tháng ngày. O

110-11. Nếu phải sống trăm năm phóng đãng

Sao bằng ngày thiền quán tinh chuyên.

Trăm năm mê muội triền miên,

Một ngày tuệ giác, hành thiền: Bình an.

112. Dù có sống trăm năm lười biếng

Sao bằng ngày tinh tấn hết lòng

Vượt qua gian khó, đục trong,

Quyết tâm đạt được thành công mới dừng.

113. Trăm năm sống mê thân ngũ uẩn

Vướng luân hồi lẩn quẩn vần xoay

Chi bằng ngày một ngộ ngay:

Vô thường, sinh diệt tại đây, bây giờ.

114-15. Trăm năm sống không rành bất diệt

Sao bằng ngày ngộ biết vô sanh.

Trăm năm mù pháp thượng nhân

Không bằng ngày ngộ pháp môn cao vời. O

 

IX. PHẨM ÁC

(Pāpa-vagga)

116. Người có trí gấp làm việc thiện

Tránh ác gian như tránh vực sâu.

Việc lành, lần lữa, không mau,

Tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.

117. Ai đã lỡ gieo trồng nghiệp ác

Đừng làm liều, tiếp tục gây thêm.

Chớ mà biện hộ, tìm quên,

Quả sầu phải gặt, xích xiềng bủa giăng.

118. Có cơ hội gieo trồng giống tốt

Nhớ siêng năng chăm sóc, làm hoài

Căn lành tăng trưởng mỗi ngày

Những ai tích phước, nay mai an lành.

119. Kẻ làm ác quả sầu chưa trổ

Chẳng phải do nhân quả không thiêng

Đến khi quả xấu kề bên

“Ác thời gặp ác”, khổ phiền ngày đêm.

120. Người gieo thiện, quả lành chưa có

Chính là do giờ trổ còn xa

Đủ duyên, cây thiện trổ hoa

“Ở hiền gặt phúc” hẳn là lý chân.      O

121. Đừng xem nhẹ những điều ác nhỏ

Vì cho rằng chẳng có hại chi

Hãy xem nước nhỏ vào ly

Mỗi giây một giọt, li ti đầy tràn.

Người ngu tối tham, gian, ác đạo

Ngày qua ngày, gây tạo nghiệp duyên

Tâm tà, nhân xấu tăng thêm

Đến khi quả trổ, triền miên muộn sầu.

122. Chớ xem thường điều lành nho nhỏ

Mà cho rằng chẳng có nghĩa gì.

Bình tràn do nước nhỏ rì

Siêng năng làm thiện sánh vì trăng sao.

123. Người sống thọ tránh xa độc dược,

Doanh nhân khôn tránh lối hiểm nguy.

Người khôn làm chủ hành vi,

Lánh xa điều ác, hướng đi an toàn.

124. Bàn tay tốt có cầm thuốc độc

Không hại ai thương tật, héo sầu.

Cũng vầy, người thiện trước sau

Không gây nghiệp ác, khổ đau cho người.

125. Kẻ xấu ác hại người đạo đức

Như bụi mù đang ngược gió bay

Khổ đau “xử” kẻ ác ngay

Quả sầu hành hạ, khó tài trốn đâu.

126. Người thiện vừa sinh từ bụng mẹ

Kẻ ác gian sa đọa cõi sầu

Thiện sinh thiên giới rất mau

Cực thiện chứng đạo thâm sâu, niết-bàn.

127. Dầu bay liệng trên trời cao vút

Hay lặn bơi mất hút biển sâu

Chui vào hang đá, đi đâu…

Cũng không trốn được quả sầu đã gieo.

128. Dầu bay liệng trên trời cao vút

Hay lặn bơi mất hút biển sâu

Chui vào hang đá, đi đâu…

Tử thần đeo bám, không sao xa lìa.   O

X. PHẨM HÌNH PHẠT

(Daṇḍa-vagga)

129. Như quy luật, mọi người sợ chết

Sợ chiến tranh, bạo lực, tổn thương…

Đặt mình vào cảnh vô thường

Không sai người giết, cũng không tự làm.

130. Như quy luật, mọi người sợ chết

Mong bình an, hạnh phúc, sống còn

Đặt mình vào cảnh tồn vong

Không gây sát nghiệp, tổn thương mạng người.

131. Như quy luật, ai người cầu phước

Dùng gậy dao giết chết sinh linh

Không sao hạnh phúc an bình

Đời này, đời tới tự mình khổ đau.

132. Như quy luật, những người cầu phúc

Không dùng dao hại giết một ai

Giữ tâm thương quý mọi loài

Đời này, đời tới an vui trong lòng.    O

133. Người thô lỗ buông lời ác độc

Người trả đòn, hằn học chua cay

Khổ đau đến với cả hai

Lời qua tiếng lại, chẳng ai được gì.

134. Gìn chính niệm, vô thinh, tĩnh lặng

Như chuông hư, tiếng chẳng ngân vang.

Với người hướng đến niết-bàn

Nội tâm thư thái, không mang hận thù.

135. Mục đồng khéo dắt bò ăn cỏ

Chiều dẫn về nhà chủ nghỉ ngơi.

Cũng vầy, già chết xưa nay

Lùa vào sinh tử bao đời chẳng tha.    O

136. Người ngu tối tạo ra lầm lỗi

Do chẳng rành gốc tội đã gây

Khổ đau nghiền nát đời này

Dày vò, phiền muộn, sánh tày lửa thiêu.

137-40. Dùng vũ khí, gậy dao đánh đập

Hành hạ người, trù dập tơi bời

Quả sầu mười loại sau đây:

Một là đau nhức đêm ngày rên la;

Hai, tai biến; ba là thương tật;

Bốn, độn căn, ngu ngốc, hay quên;

Năm thường lận đận luật quan;

Sáu vương trọng tội bị oan, hiểu lầm.

Bảy, thân quyến, họ hàng ly tán

Tám, chẳng may tài sản tiêu tan

Chín là hỏa hoạn, nghèo nàn

Mười sau khi chết đọa làm súc sinh. O

141. Dù lõa thể, ngồi lì, tuyệt thực;

Không gội đầu, bện tóc rối tung…

Đừng hòng chuyển hóa tâm hồn

Nếu tâm nghi hoặc vẫn còn y nguyên.

142. Sống trang sức bằng nguồn an tịnh

Điều phục tâm, giới hạnh, kiên trì

Thương người, mến vật, từ bi

Sa-môn, phạm chí sánh vì trời cao.

143. Trong trời đất hiếm người chính niệm,

Biết giữ mình, hổ thẹn, lương tâm

Tránh lời chỉ trích, chửi thầm

Cũng như ngựa giỏi chẳng cần phạt roi.

144. Như ngựa quý chẳng cần roi chạm

Sống nhiệt tâm, dũng cảm, chuyên cần

Vững tin, giới đức, thiền hành

Chọn tìm giáo pháp, thấm nhuần lý chân.

Gìn chính niệm, cùng Minh Hạnh túc

Nêu quyết tâm tam độc loại trừ,

Khổ đau kết thúc, thản thư

Người này xứng bậc chân tu trên đời.

145. Như thủy lợi làm kênh dẫn nước

Kẻ làm tên nắn vuốt cung tên

Thợ cây bào ván hai bên

Người khôn làm chủ bản thân đêm ngày. O

 

XI. PHẨM GIÀ

(Jarā-vagga)

146. Cười sao được, sướng vui sao nổi

Khi lửa tham cháy rụi thế gian

Tối tăm giăng phủ trời đêm

Sao không nỗ lực tìm đèn sáng soi?

147. Thân bề ngoài, đẹp đầy nhựa sống

Ở bên trong, một đống vết thương

Gây sầu, sao lại vấn vương?

Thân là giả tạm, vô thường, mong manh.

148. Thân mấy chốc đã già, tàn tạ

Nơi chứa đầy bệnh khổ, hôi tanh

Vô thường tổ hợp mong manh

Chết là kết thúc, tái sanh hồng trần.

149. Thân thể này màu bồ câu trắng

Như trái bầu, thu đến vứt đi.

Chết rồi thi thể gớm ghê

Có gì vui thích, mải mê thân này?     O

150. Ôi, thân thể như thành trì cổ

Dựng bằng xương, máu đỏ, thịt, gân

Chứa già, chết, bệnh từng phần

Cống cao, lừa dối; dáng duyên nỗi gì!

151. Xe vua đẹp có ngày cũng cũ

Thân thể rồi ủ rũ, tàn phai

Pháp lành trẻ mãi, còn hoài

Hãy nên khắc cốt những lời thánh nhân.

152. Trẻ ít học, già không hiểu biết

Chẳng khác gì bò đực lớn đầu

Thân to, cơ bắp, khỏe, mau

Nhưng không trí tuệ, khác nào bóng đêm?

153-4. Lang thang suốt luân hồi bao kiếp

Quyết đi tìm “ông xếp” xây nhà

Tìm hoài, tìm mãi, không ra

Tái sanh, khổ lụy, đọa sa ba đường.

- Nay ta cấm ngươi không xây nữa

Phá cột kèo, ván cửa, rui mè…

Nay ta đã chứng niết-bàn

Ái tham, chấp thủ tiêu tan hết rồi.

155. Lúc còn trẻ chẳng màng đạo đức

Không học nghề, tự lập lo thân

Đến già gặp phải khó khăn

Như cò ủ rũ, không còn cá tôm.

156. Có người trẻ chẳng rèn đức hạnh

Không luyện nghề, không lãnh tiền lương

Khi già, buồn tủi, sầu vương

Nhớ về dĩ vãng, thở than vắn dài.      O

 

XII. PHẨM TỰ NGÃ

(Atta-vagga)

157. Người đánh giá bản thân là quý

Phải chính tâm bảo vệ lấy mình

Ngày đêm người trí giữ gìn

Luôn trong tỉnh thức, tịnh minh cõi lòng.

158. Người trí tuệ bản thân vững chãi

Tự chủ mình, hoàn thiện, chánh chân

Xong rồi, giáo hóa tha nhân

Sống trong gương mẫu, thế gian nể vì.

159. Người gương mẫu thực hành hoàn tất

Mới đem ra giáo dục thế nhân

Tự mình làm chủ thân tâm

Soi gương nhân cách, hạnh lành truyền trao.

160. Người sáng suốt tự nương mình vững

Không tìm cầu, dựa dẫm vào ai

Lành thay, điều phục tâm này

Biết tự điều phục, không hai trên đời. O

161. Các điều ác do mình tạo tác

Ác do tâm, ai khác ngoài ta

Ác nhân nghiền nát người tà

Như kim cương cứng nghiền qua đá thường.

162. Như tầm gửi bám cây Phật pháp

Người buông lung giới đức chẳng gìn

Hạnh tà chuốc họa vào thân,

Kẻ thù sung sướng thấy mình tiêu tan.

163. Làm điều ác không cần trình độ

Hãm hại ta đau khổ dễ hơn

Khó thay, làm thiện chánh chơn

Mình người lợi lạc, bình an cõi đời.

164. Kẻ ác kiến ngu si, phỉ báng

Giáo pháp hàng La-hán nhiệm mầu

Hại mình như ngọn trúc lau

Ngay khi trổ quả nhuốm màu diệt vong.

165. Các điều ác do mình tự tạo

Rồi vướng vào khổ não, họa tai.

Điều lành ta tạo hôm nay

Quả an vui đến sớm mai là thường.

Nên hiểu rõ sạch trong, nhơ uế

Hành động do gốc rễ từ tâm

Cậy nhờ tha lực khó thành

Đổ lỗi “tại, bởi” sao đành, không nên.

166. Dù phụng sự vị tha, thiết thực

Xin chớ quên thực tập lợi mình

Chuyên tâm học pháp cao minh

Hướng về giải thoát, đạt thành mới thôi. O

 

XIII. PHẨM THẾ GIAN

(Loka-vagga)

167. Người sáng suốt chớ ôm tà kiến

Sống buông lung, ti tiện qua ngày.

Nghiệp tà vạy, chớ kéo dài

Được vầy, sinh tử luân hồi sớm ra.

168-9. Luôn tinh tấn không mê lạc thú

Hạnh thanh cao, tu sĩ thường ghi

Trang nghiêm giới đức, hành trì

Hai đời hưởng phúc chỉ vì tu tâm.

170. Hãy quán tưởng trong đời trần tục

Mọi thứ như bọt nước, huyễn vong.

Đến khi ngộ lẽ vô thường

Tử thần không thể lần đường chân nhân.

171. Cõi hồng trần đẹp tuồng ảo mộng

Như xe vua hoành tráng gấm thêu

Kẻ ngu tham đắm, chắt chiu

Người khôn tỉnh thức, chẳng yêu nhiễm đời. O

172. Dù quá khứ buông lung, dục lạc

Nhưng về sau tỉnh thức, chuyển tâm

Làm lành, tỏa sáng trần gian

Như trăng rằm chiếu, không còn mây che.

173. Dù ngày trước gây bao tội lỗi

Nhưng hôm nay sám hối, hồi tâm

Làm lành, tỏa sáng trần gian

Như trăng rằm chiếu, không còn mây che.

174. Kẻ mù tối, thế gian đầy dẫy

Người sáng trong có mấy trên đời!

Như chim khôn chẳng vướng mồi

Người tu đạo đức an vui cõi trời.

175. Như trời thẳm, thiên nga uốn liệng

Có thần thông ẩn hiện không gian

Trí nhân thoát chốn hồng trần

Vượt qua ma chướng, vững vàng đường tu.

176. Với những kẻ chẳng tôn trọng Pháp

Dùng vọng ngôn lừa lọc, rêu rao

Ghét thiện, bác bỏ đời sau...

Lún sâu đường ác, ngày nào vượt ra!

177. Kẻ keo kiệt không sanh thiên giới

Người dại ngu chẳng đoái tình thương

Người hiền thích sống thiện lương

Đời sau hưởng phúc khác thường thế nhân.

178. Chứng sơ quả thánh nhân rạng rỡ

Hơn cõi trời Thiên chủ uy quyền

Hơn Trời trong chốn càn khôn

Khó tìm trong cõi bụi hồng người hơn. O

 

XIV. PHẨM PHẬT ĐÀ

(Buddha-vagga)

179. Phật chiến thắng hoàn toàn cõi trược

Tham ái trừ, tuệ giác sâu ngần

Không lưu dấu vết trần gian

Đố ai vẽ được bước chân vượt đời.

180. Bậc giải thoát lưới tham, ái dục

Hết tái sanh, tuệ giác sâu ngần

Không lưu dấu vết trần gian

Đố ai vẽ được bước chân vượt đời.

181. Người có trí thiền hành, tinh tấn

Tìm niềm vui trong hạnh viễn ly

Đêm ngày tỉnh thức luôn khi

Trời người kính trọng, sánh vì trăng sao.

182. Thật hạnh phúc, làm người nhân đức

Quả khó thay, sống thật tịnh thanh

Khó thay, nghe pháp, thực hành

Khó thay, gặp Phật chứng thành quả cao.

183. Mọi hoàn cảnh không làm bất thiện

Dù khó khăn, phát triển nhân lành

Luyện tâm, rèn ý tịnh thanh

Là lời Phật dạy đành rành xưa nay.

184. Tu nhẫn nhục: Khổ hành đáng quý

Đạt niết-bàn: Quả vị tối cao

Chúng sinh: Chẳng hại tơ hào

Hạnh sa-môn ấy cao sâu khó bàn.     O

185. Không phỉ báng, không làm thương tổn

Làm chủ mình, giới bổn vẹn toàn

Điều hòa ăn uống, định thiền

Sống đời an tịnh, không phiền một ai.

186-7. Dù mưa rải bạc vàng chưa thỏa

Lòng dục tham không đáy xưa nay

Trí nhân hiểu rõ điều này

Khổ nhiều, vui ít, không sai bao giờ.

- Ngộ lẽ ấy, người tu học Phật

Chẳng đam mê dục lạc người, trời

Quyết lòng chuyển hóa, thảnh thơi

Không còn tham ái, rạng ngời nhân gian.

188-9. Trong nguy khổ, người tìm nương tựa

Hoặc thần linh, rừng rú, non cao,

Miếu, đình, cây, vật, hang sâu,

Vái van, hiến tế, mong sao an lành.

- Nương tựa ấy hoàn toàn vô bổ

Tìm loanh quanh, nhiều chỗ bất an

Khổ đau còn đó, chưa tan

Chỉ do mê tín, chẳng thành tựu chi.

190. Người có phước, tìm về Tam bảo

Phật, Pháp, Tăng quý báu khó hơn

Khó khăn, bất hạnh tựa nương

Dùng Bốn chân lý làm phương thoát nàn.

191. Thấy đau khổ, nguyên nhân gây khổ

Thấy niết-bàn, thánh lộ tám ngành

Đưa người đến chốn bình an

Không còn bất hạnh, trần gian muộn phiền. O

192. Nương tựa ấy tạo nên quả phước

Nguồn tâm linh, thể đạt an vui

Người khôn nương tựa đời đời

Vẫy chào đau khổ, thảnh thơi cuộc đời.

193. Bậc trí tuệ vun bồi giới đức

Tìm khắp nơi hiếm được một người

Chỗ nào có bậc trí tài

Xóm làng hạnh phúc, cuộc đời bình an.

194. Ôi hạnh phúc, Như Lai thị hiện

Pháp cao siêu lăn chuyển khắp nơi

Tăng đoàn hòa hợp đạo đời

Bốn hàng đệ tử cùng vui tu hành.

195. Biết lễ kính những người đáng kính

Phật, thánh hiền đức hạnh thanh cao

Những người chướng ngại sạch làu

Não phiền dứt sạch, khổ đau giã từ.

196. Nhờ cung kính chân tu quảng đại

Bậc tịnh an, tự tại thấy nghe,

Không còn sợ hãi, sầu, mê,

Phước lành mỹ mãn đề huề bên ta.    O

 

XV. PHẨM AN LẠC

(Sukha-vagga)

197. Phúc thay sống giữa người thù hận

Lòng thảnh thơi, chẳng giận hờn ai

Lành thay, sống giữa chua cay

Không hề oán hận, nguôi ngoai cõi lòng.

198. Phúc thay sống giữa người đau bệnh

Chẳng hề chi, khỏe mạnh tấm thân,

Lành thay, sống giữa nguy nan

Bình an, vô sự, an toàn trước sau.

199. Phúc thay sống giữa người khát dục

Lòng dửng dưng, gạn đục khơi trong.

Lành thay, sống giữa vô thường

Lòng không ham muốn, không vương khổ sầu.

200. Phúc thay sống giữa người chấp hữu

Gìn vô tham, vô ngã, không sầu.

Cõi lòng an lạc vô cầu

Vui như thiên giới đứng đầu Quang Âm.

201. Người chiến thắng thường gây thù oán

Kẻ bại thua uất hận khổ đau.

Vui thay, hòa hợp trước sau,

Bỏ qua thắng bại, dâng trào niềm vui.

202. Trong các lửa, dục tham số một

Còn tâm sân vượt trội quân ma,

Khổ nào sánh kịp chấp “ta”

Niết-bàn tối thượng thật là lạc an.

203. Cơn đói khát chính là bệnh dữ

Chấp cái ta, bệnh khổ nhiều hơn.

Vượt qua bỉ thử, ngã nhơn

Niết-bàn chứng đắc, cát tường an vui. O

204. Có sức khỏe còn hơn tặng phẩm

Biết đủ là tài sản tối cao

Chân tình là bạn tâm giao

Niết-bàn số một, phúc nào sánh hơn!

205. Người nếm vị thanh cao ẩn dật

Vui niết-bàn, an lạc khó hơn.

Nhiễm ô, sợ hãi đâu còn

Thấm nhuần pháp hỷ, tâm không vướng gì.

206. Thật may mắn, thánh nhân gặp mặt

Được gần bên hạnh phúc nào hơn!

Phúc thay, chẳng gặp ngu nhân

Càng xa khỏi họ, càng an lành nhiều.

207. Cùng chung sống với người ngu tối

Khổ khác gì sống với kẻ thù.

Sống chung người trí vô ưu

Như cùng thân quyến chẳng lo sợ gì.

208. Với những bậc tinh thông, sáng suốt

Người giữ gìn, giới đức, thánh nhân

Quyết lòng gần gũi, kết thân

Như trăng soi sáng con đường đang đi. O

 

XVI. PHẨM HỶ ÁI

(Piya-vagga)

209. Cố đeo đuổi điều nên xa lánh

Việc đáng theo lại tránh không làm.

Bỏ mục tiêu, vướng ái tham

Nỡ nào ganh ghét người ham tu hành?!

210. Chớ gần gũi người thương quá đỗi

Đừng gần người bực bội, ghét mình

Thương không gặp, khổ muôn phần

Tiếp duyên kẻ ghét ngút ngàn khổ đau.

211. Hiểu được thế, chớ yêu chớ nhớ

Yêu xa nhau, đau khổ biệt ly

Vẫy chào yêu ghét, sầu bi

Cắt dây trói buộc, còn gì sướng hơn!

212. Gốc tham ái sanh ra đau khổ

Tạo sầu bi, lo sợ ngã nhân

Ai trừ tham ái khỏi tâm

Xa lìa sợ hãi, không còn sầu bi.

213. Gốc luyến ái sanh ra đau khổ

Tạo sầu bi, lo sợ ngã nhân

Ai trừ luyến ái khỏi tâm

Xa lìa sợ hãi, không còn sầu bi.        

214. Gốc hỷ ái sanh ra đau khổ

Tạo sầu bi, lo sợ ngã nhân

Ai trừ hỷ ái khỏi tâm

Xa lìa sợ hãi, không còn sầu bi.

215. Gốc dục ái sanh ra đau khổ

Tạo sầu bi, lo sợ ngã nhân

Ai trừ dục ái khỏi tâm

Xa lìa sợ hãi, không còn sầu bi.        O

216. Gốc khát ái sanh ra đau khổ

Tạo sầu bi, lo sợ ngã nhân

Ai trừ khát ái khỏi tâm

Xa lìa sợ hãi, không còn sầu bi.

217. Người giới đức, tuệ tri đầy đủ

Nương pháp lành, chứng ngộ lý chân

Làm xong những việc phải làm

Mọi người kính nể mười phân vẹn mười.

218. Niết-bàn chứng ly ngôn tông chỉ

Quả tam hiền, tuệ trí viên thông

Lìa dục lạc, tịnh cõi lòng

Bậc chân nhân đó ngược dòng thế gian.

219. Như lữ khách biệt tăm, xa vắng

Nay trở về lành lặn, bình an

Bạn bè, thân quyến hân hoan

Chúc mừng sum hợp, xóm làng chia vui.

220. Cũng như thế, với người làm thiện

Bao đời qua cho đến đời nay,

Quả lành chào đón hai tay

Chúc mừng hạnh phúc, khó ai được bằng! O

XVII. PHẨM SÂN HẬN

(Kodha-vagga)

221. Tu chuyển hóa không còn giận tức

Đã lìa xa danh sắc, mạn, tham

Không còn kiết sử buộc ràng

Người “vô sản” ấy xua tan khổ sầu.

222. Dừng phẫn nộ khi tâm tức giận

Như đạp phanh, xe thắng lại ngay.

Xứng danh người lái xe tài.

Còn những người khác là nài cầm cương.

223. Dùng không-hận vượt qua cơn giận

Bố thí nhiều chiến thắng xẻn, tham

Nhân từ chinh phục ác gian

Dùng tâm chân thật thắng ngàn ngụy trang. O

224. Dù nghèo khó, thực hành ban tặng

Chuyển hóa tâm, sân hận không còn

Nói lời ái ngữ, thực lòng:

Đây là điều kiện sanh lên cõi trời.

225. Người gieo rắc tình thương, bất hại

Khắp mọi nơi, tự tại thân, tâm

Lìa phiền não, hướng niết-bàn

Khổ đau kết thúc, bình an giữa đời.

226. Người tỉnh thức ngày đêm tinh tấn,

Học và tu cố gắng song hành

Một lòng hướng đến niết-bàn

Vượt qua lậu hoặc, dễ dàng thành công.

227. Người im lặng bị chê không biết

Kẻ phát ngôn mang tiếng lắm lời

Có ai không bị chê cười?

Thị phi là thói miệng đời xưa nay.

228. Như quy luật điều này kim cổ

Chẳng ai từng toàn bị chê thôi

Cũng không mãi được khen hoài

Khen chê là thói miệng đời, bận chi!

229. “Người có trí sống không tỳ vết

Giới hạnh và định, tuệ tròn đầy.”

Ai thường thẩm sát vị này

Công tâm tán thán, nể người chân tu.

230. Người giữ giới như vàng óng ánh

Một lòng tu, đức hạnh cao vời

Xứng danh khen ngợi của đời

Phạm thiên cũng phải ngỏ lời tán dương.

231. Thân làm chủ thì đừng cáu giận

Phòng hộ thân sẽ đặng an lành

Các điều xấu ác chớ làm

Những điều đạo đức tinh cần không quên.

232. Làm chủ miệng thì đừng cáu giận

Phòng hộ lời sẽ đặng an lành

Không lời thô ác, cộc cằn

Những lời từ ái tinh cần không quên.

233. Làm chủ ý thì không cáu giận

Phòng hộ tâm sẽ đặng an lành

Tâm không tà kiến, dữ dằn

Tư duy chân chánh tinh cần không quên.

234. Bậc hiền trí điều thân, miệng, ý

Gìn cả ba tỉ mỉ không quên

Thân lành, lời đẹp, ý chơn

Hoàn thành điều phục, không còn bợn nhơ. O

XVIII. PHẨM CẤU UẾ

(Mala-vagga)

235. Thân thể sẽ tàn như lá úa

Thần chết luôn chầu chực kề bên

Ở đời, mạng sống vô thường

“Hành trang” chưa đủ, đường trường mệt hơi.

236. Hãy xây dựng cho mình hòn đảo

Gấp tinh cần, vì đạo tu hành

Dứt phiền não, ý tịnh thanh

Lên miền đất thánh, tái sanh trời lành.

237. Nay thân thể tàn suy, sắp hết

Gặp Diêm Vương, thần chết kề bên

Giữa đường không thể nghỉ chân

“Hành trang” chưa đủ, dặm đàng mệt hơi.

238. Hãy xây dựng cho mình hòn đảo

Gấp tinh cần, vì đạo tu hành

Dứt phiền não, ý tịnh thanh

Không còn già, chết, tử sanh đèo bồng.

239. Bậc hiền trí tự mình nỗ lực

Chuyển uế tâm, gạn đục khơi trong

Cũng như thợ giỏi luyện vàng

Không còn tạp chất, tinh ròng hoàng kim. O

240. Chất rỉ sét sanh ra từ sắt

Lại ăn mòn thanh sắt dần dần

Ác nhân gieo nghiệp chẳng lành

Tạo thành quả ác, tự mình vương mang.

241. Không tụng niệm làm nhơ kinh điển

Không quét lau làm bẩn cửa nhà

Biếng lười nhan sắc mau già

Kẻ phóng dật luôn lơ là phòng canh.

242. Thiếu tiết hạnh tan tành phụ nữ

Keo kiệt thường thích giữ, không cho

Ác tà là một vết nhơ

Đời này, đời tới lờ mờ, khổ đau.

243. Trong tất cả bẩn nhơ vừa kể

Vô minh là cấu uế đứng đầu

Người tu siêng học pháp mầu

Xứng hàng vô nhiễm, vượt cầu tử sinh.

244. Không hổ thẹn thói này dễ quá

Lỗ mãng như chim quạ cắn lưng

Chê bai, ngã mạn, ngông cuồng

Nhiễm ô, liều lĩnh, trăm đường trái ngang. O

245. Đẹp biết mấy, người thường hổ thẹn

Sống vô tư, khiêm tốn, hài hòa

Buộc ràng nhất quyết lìa xa

Giữ tâm sáng suốt, thật thà, tịnh thanh.

246-8. Có những kẻ sát sanh, hại vật

Của không cho cướp đoạt về mình

Dối gian, nghiện ngập, ngoại tình

Tự đào mộ huyệt, tự chôn cuộc đời.

Chính vì thế người khôn nên biết

Chế ngự tâm thì ác diệt vong

Tham lam tội lỗi cùng đường

Khổ đau, lận đận, đoạn trường khó ngưng.

249. Do tâm đạo hoặc lòng hoan hỷ

Mà có người bố thí, cúng dường.

Ai người bất mãn, ganh, hờn

Ngày đêm khó được định tâm an lành.

250. Ai bỏ được hờn, căm, ganh ghét

Biết vui theo hạnh phúc của người

Ngày đêm tùy hỷ, tươi cười

Định tâm đạt được giữa đời trái ngang.

251. Lửa dữ nhất là tham ái nặng

Chấp nào hơn thù hận tái tê

Lưới nào hơn lưới si mê

Sông tình bể dục kéo lê bao người.

252. Bươi móc lỗi của người dễ ẹt

Như quạt quay, thổi trấu ra ngoài

Lỗi mình che giấu đêm ngày

Khác gì gian lận chơi bài quen tay.

253. Kẻ nhếch mắt truy tìm lầm lỗi

Thường cống cao, chỉ trích, chê bai

Não phiền theo đó tăng hoài

Cõi lòng an tịnh biết ngày nào đây?

254. Hư không vốn không lưu dấu vết

Ngoài Phật môn khó kiếm sa-môn

Đời ham tranh luận vui mồm

Như Lai an tịnh, không còn hơn thua.

255. Hư không vốn không lưu dấu vết

Ngoài Phật môn khó kiếm sa-môn

Hữu vi biến đổi, vô thường

Như Lai an tịnh, không còn động tâm. O

 

XIX.PHẨM PHÁP TRỤ

(Dhammaṭṭha-vagga)

256. Bậc pháp trụ[12] là người chuẩn mực

Không sống theo chuyên chế, cực đoan

Trí nhân cư xử cân phân

Chánh tà, đen trắng rõ ràng không sai.

257. Bậc pháp trụ là người trí giác

Sống công bằng, dẫn dắt mọi người

 

Không còn chuyên chế, lộng quyền

Sống theo luật pháp cho đời thăng hoa.

258. Bậc hiền trí chẳng do hiểu rộng

Hay nói nhiều những chuyện trên đời

Không thù, không oán sợ người

An hòa, đức độ, rạng ngời chánh chân.

259. Người trì pháp chẳng do lắm miệng

Biết noi theo chuẩn mực pháp mầu

Thực hành chẳng chút lãng xao

Không còn phóng túng, thẩm sâu đạo vàng. O

260. Gọi trưởng lão chẳng vì tóc bạc

Hoặc sống lâu, tuổi tác đã cao

Những ai đức, trí không sâu

Già đầu mê muội khác nào “lão ngu.”

261. Người thông đạt bốn điều chân lý[13]

Chủ giác quan, tuệ trí, chánh chân

Không còn lậu hoặc, tịnh thanh

Trưởng lão như vậy xứng danh đạo đời.

262. Đâu phải đẹp, hoặc tài hùng biện

Mà trở thành người thiện chánh chân.

Ai không ích kỷ, hờn ganh

Không còn cao ngạo xứng danh bậc hiền.

263. Bậc hiền thiện là người dứt được

Tham, sân, si – nguồn gốc khổ đau

Tỏ thông trí tuệ làu làu

Đức tài ngời sáng, đạo mầu tràn dâng.

264. Là tu sĩ đâu do đầu trọc.

Phải thực hành, dứt sạch dục tham

Không còn phóng túng, dối gian

Hạng sa-môn ấy chánh chân trọn đời.

265. Ai chuyển hóa ác nhân lớn nhỏ

Dứt tham, sân, sáng tỏ nguồn tâm

Không còn ác pháp, tịnh thanh

Hạng sa-môn ấy xứng danh trên đời.

266. Người tu sĩ phải đâu hành khất

Chỉ biết ôm bình bát xin ăn

Người tu chánh pháp hiểu rành

Giới hạnh đầy đủ, trí nhân sáng ngời.

267. Người tu sĩ vượt qua thiện, ác

Sống giữ gìn giới đức thanh cao

Dùng nguồn trí tuệ cao sâu

Xét soi vạn pháp, đạo mầu tràn dâng.

268. Chỉ im lặng mà tâm vô trí

Đâu gọi là ẩn sĩ đạo cao?

Trí nhân chọn thiện rất mau

Cán cân hạnh phúc đi đầu mọi duyên.

269. Bậc ẩn sĩ trong ngoài thấu hiểu

Đời bây giờ và kiếp tương lai

Dứt trừ ác pháp hôm nay

Xứng danh Thích tử Mâu-ni nhiệm mầu.

270. Bậc hiền thánh không gieo nghiệp sát

Hại con người, động vật, sinh linh.

Tâm từ thương khắp chúng sinh

Loài vô tình lẫn hữu tình như nhau.

271-2. Chẳng vì cớ giữ gìn giới luật

Hay vin vào học đủ hiểu nhiều

Chẳng vì thiền định cao siêu

Sống nơi thanh vắng sớm chiều độc cư...

Mà có thể tự cho chứng đắc

Tự mãn lòng được phước viễn ly

Chớ nên xao lãng hành trì

Đến khi lậu hoặc hết thì mới xong.    O

 

XX. PHẨM ĐẠO

(Magga-vagga)

273. Bát chánh đạo là đường độc lộ

Chân lý thì Tứ đế cao sâu

Lìa tham ái – quả nhiệm mầu

Chứng nên pháp nhãn dẫn đầu hai chân.[14]

 

274. Bát chánh đạo không đường nào khác

Tuệ cao siêu, giải thoát, tịnh thanh 

Noi theo đường ấy thực hành

Não phiền dứt sạch, ma quân quy hàng.

275. Theo chánh đạo khổ đau chấm dứt

Các chướng duyên kết thúc dễ dàng

Như Lai chỉ rõ con đường

Trí tuệ tăng trưởng, không còn tái sinh.

276. Hãy thực tập nhiệt tình, miên mật

Đức Như Lai là bậc chỉ đường

Siêng tu thiền định chuyên ròng

Vượt qua lưới ái ma vương nhiều đời.

277. Bằng tuệ quán chiếu soi thế giới

Các hành[15] kia dính với vô thường

Không còn đau khổ sầu vương

Thênh thang cất bước con đường an vui.O

278. Bằng tuệ quán chiếu soi thế giới

Các hành kia dính với khổ đau

Không còn bất hạnh, muộn sầu

Con đường thanh tịnh, đạo mầu an vui.

279. Bằng tuệ quán chiếu soi tất cả

Các hành kia vô ngã xưa nay

Không còn đau khổ ngay đây

Đạo vàng an lạc phút giây hiện tiền.

280. Khi cần thiết thì không nỗ lực

Lúc trẻ trung biếng nhác, buông lung

Cầu an, nhu nhược, thủ thường

Làm sao tìm được con đường cao siêu?

281. Gìn tâm thức, thân không làm ác

Giữ ngữ ngôn rất mực chánh chân

Hộ phòng ba nghiệp, thân tâm

Chứng nên đạo giác thánh nhân chỉ bày.

282. Tu thiền định tăng nhanh trí tuệ

Hiểu con đường hai ngã diệt sanh[16]

Tự mình nỗ lực thực hành

Trau dồi tuệ giác, đạt thành quả cao.

283. Trong rừng núi, dục là số một

Rừng dục làm sợ hãi, sầu vương

Đốn rừng ái dục sạch trơn

Người tu tịch tịnh con đường thanh cao. 

284. Dây tình ái gái trai chưa bỏ

Thì khó mong làm chủ được tâm

Rơi vào tình trạng buộc ràng

“Bò con vú mẹ” dặm đàng chẳng buông.

285. Tự vứt bỏ sợi dây ái dục

Như dùng tay bẻ đứt sen thu

Đạo tịch tịnh, hãy tiến tu

Niết-bàn an lạc từ từ chứng nên.

286. Mùa đông, hạ, nơi đây ta ở

Rồi mùa mưa cũng trụ chỗ này

Người ngu ỷ lại như vầy

Đâu ngờ hiểm “chết” bủa vây, ngóng chờ.

287. Người vướng kẹt chấp nê sở hữu

Con cái tôi, tài sản của tôi

Tử thần theo bắt, kéo lôi

Như cơn lũ lớn cuốn trôi cả làng.

288. Khi thần chết kề bên kiếp số

Cha mẹ nào bảo hộ được đâu

Người thân, con cái sầu đau

Nghiệp ai nấy chịu, làm sao cứu nàn?

289. Vô thường đến không ai giúp được

Hiểu được rồi, giới luật trang nghiêm

Mau tu chuyển hóa tinh chuyên

Niết-bàn chứng đắc trọn nên đạo vàng. O

 

XXI. PHẨM TẠP LỤC

(Pakiṇṇaka-vagga)

290. Nhờ từ bỏ niềm vui nhỏ nhít

Mà đạt thành hạnh phúc lớn hơn

Thú vui ngũ dục chẳng màng

Trí nhân hưởng đạt niết-bàn an vui.

291. Gieo đau khổ cho người bị hại

Lại cầu mong gặt hái bình an

Những ai thù hận buộc ràng

Không sao thoát khỏi trái ngang trong đời.

292. Việc xứng đáng lại không làm tốt

Việc chẳng gì lại trút vào thân.

Người ngu ngạo mạn, buông lung

Não phiền, lậu hoặc gia tăng đêm ngày.

293. Quán thân thể do duyên, bất tịnh

Siêng năng làm những việc đáng làm

Giữ gìn chánh niệm thân tâm

Não phiền, lậu hoặc tiêu tan hết liền.

294. Giết mẹ ái, cha già ngã mạn

Trừ hai vua tà kiến: đoạn, thường.[17]

Dẹp mười hai xứ,[18] ái tham[19]

Vị Phạm chí[20] ấy xứng hàng vô ưu.

294. Giết mẹ ái, cha già ngã mạn

Trừ hai vua tà kiến: đoạn, thường.

Diệt luôn hỗ tướng nghi nan[21]

Vị Phạm chí ấy xứng hàng vô ưu.

296. Đệ tử Phật đêm ngày tỉnh thức

Niệm Như Lai mười đức[22] vẹn toàn

Công phu, làm chủ thân tâm

Oai nghi, chính niệm chuyên cần thường xuyên.

297. Đệ tử Phật đêm ngày tỉnh thức

Niệm Pháp mầu năm đức[23] vẹn toàn

Công phu, làm chủ thân tâm

Oai nghi, chính niệm chuyên cần thường xuyên. O

298. Đệ tử Phật đêm ngày tỉnh thức

Niệm Tăng đoàn giới đức vẹn toàn

Công phu, làm chủ thân tâm

Oai nghi, chính niệm chuyên cần thường xuyên.

299. Đệ tử Phật đêm ngày tỉnh thức

Quán thân này cấu uế, do duyên

Công phu, làm chủ thân tâm

Oai nghi, chính niệm chuyên cần thường xuyên.

300. Đệ tử Phật đêm ngày tỉnh thức

Hành từ bi, không giết chúng sinh

Công phu, làm chủ thân tâm

Vui niềm bất hại, chuyên cần thường xuyên.

301. Đệ tử Phật đêm ngày tỉnh thức

Thực hành thiền, chuyển hóa tham, sân

Công phu, làm chủ thân tâm

Oai nghi, chính niệm chuyên cần thường xuyên. O

302. Thật đáng quý xuất gia chân chính

Đời tại gia lắm chuyện khổ đau

Buồn thay, bạn chẳng hiểu nhau

Luân hồi chìm đắm muộn sầu, chớ theo.

303. Có chính tín, vẹn toàn đức hạnh

Danh dự tăng, thánh sản[24] cũng tăng

Nơi nào vị ấy đến thăm

Mọi người kính nể, xa gần tôn vinh.

304. Bậc hiền thiện ở xa vẫn sáng

Như núi cao tuyết trắng chói ngời

Ác nhân gần, chẳng đoái hoài

Như tên mất hút đêm dài, vô minh.

305. Đường độc lộ dứt duyên, thanh vắng

Không cô đơn, buồn chán một mình

Ngồi, nằm, đi, đứng lặng thinh

Rừng sâu thoải mái, tịnh thanh cõi lòng. O

 

 

XXII. PHẨM ĐỊA NGỤC

(Niraya-vagga)

306. Kẻ vọng ngữ nói sai sự thật

Có nói không, thêu dệt, ba hoa

Kẻ ác chối “chẳng phải ta”

Sống làm người xấu, chết sa ngục hình.

307. Kẻ khoác áo cà-sa giả dạng

Sống buông lung, giới hạnh chẳng gìn

Ác do nghiệp ác hoành hành

Chết sa cõi dữ, ngục hình phải vương.

308. Thà nuốt sắt đỏ hừng nóng bức

Hơn buông lung, giới đức chẳng gìn

Ăn đồ tín thí cúng dâng

Làm sao tiêu nỗi nghiệp nhân nhận về.

309. Bốn tai nạn chờ người dâm đãng

Thích ngoại tình, sống chẳng thủy chung:

Ngủ không ngon giấc, tai ương

Bị đời chế giễu, lầm đường ngục sa. O

310. Không chung thủy họa tai chờ đón

Sống lo âu, thấp thỏm, ít vui,

Vướng vòng luật pháp tiêu đời

Một chồng một vợ, rạng ngời phước duyên.

311. Cỏ lau nắm mà sai tư thế

Khó bình an khỏi họa xước tay.

Sa-môn giới hạnh chẳng ngay

Đọa sa tù ngục biết ngày nào ra.

312. Sống phóng đãng, sáu căn chẳng giữ

Giới đức thì ô uế, đáng ngờ

Không theo hạnh thánh, bỏ tà

Quả cao khó chứng, quả là không sai.

313. Điều chân chánh cần làm dứt khoát

Làm say mê, trút hết khả năng

Xuất gia phóng đãng: phá Tăng

Làm người tổn tín, hoang mang bụi mù. O

314. Điều xấu ác không nên dính tới

Làm xong rồi, tù tội khổ đau.

Nhân lành nỗ lực trồng sâu

Tâm không tiếc nuối, chẳng bao giờ phiền.

315. Như thành lũy trong ngoài canh giữ

Phòng hộ thân, chớ có buông lung.

Đời không tu tập: Trầm luân

Đọa sa vì nỗi lầm đường trần duyên.

316. Việc không thẹn thì luôn ray rứt

Đúng lương tâm lại bực là sao?

Sống theo tà kiến: Khổ đau

Đọa sa cõi xấu, ngụp đầu trầm luân.

317. Không đáng sợ thì luôn lo lắng

Đáng sợ thì chẳng hoảng là sao?

Sống theo tà kiến: Khổ đau

Đọa sa cõi xấu, ngụp đầu trầm luân.

318. Không có lỗi thì luôn buộc tội

Có tội mà thoát khỏi là sao?

Sống theo tà kiến: Khổ đau

Đọa sa cõi xấu, ngụp đầu trầm luân.

319. Người có lỗi thì cho có lỗi

Không tội thì phải nói là không

Noi theo chánh kiến, thong dong

Chết sanh thiên giới, con đường an vui. O

 

XXIII. PHẨM VOI

(Nāga-vagga)

320. Như voi chiến xông pha giữa trận

Hứng tên rơi, đạn bắn, tấn công

Chịu lời phỉ báng không buồn

Người tu tập biết xả buông nhẹ nhàng.

321. Voi, ngựa quý được đưa dự hội

Được vua quan chọn cưỡi trên lưng

Người hiền số một hồng trần

Chịu bao phỉ báng của phường ác gian.

322. Như ngựa giống và la thuần chủng

Hay voi to, ngà trắng, đẹp ngần

Những ai điều phục bản thân

Trang nghiêm giới hạnh, xứng hàng tối cao.

323. Chẳng do cỡi ngựa voi quý đắt

Mà giúp người chứng đạt niết-bàn

Những người chiến thắng bản thân

Mục tiêu cứu cánh đắc thành dễ thôi.

324. Voi Tài Hộ hung hăng, khó phục

Tiết mồ hôi, phát dục mỗi khi

Nhốt giam, chẳng uống ăn gì

Ngày đêm canh cánh hướng về rừng voi.

325. Người biếng nhác thường ham hưởng thụ

Ăn uống nhiều, nằm ngủ cả ngày

Khác gì như lợn mập thây

Kẻ ngu sinh tử, khó ngày thoát ra.

326. Bao ngày trước, tâm thường lêu lỏng

Theo thú vui, dục vọng quay cuồng.

Hôm nay, chế ngự được lòng

Như người quản tượng cương thường điều voi. O

327. Hãy vui thích với không phóng dật

Giữ gìn tâm, tỉnh thức, lạc an

Vượt ngoài kiết sử buộc ràng

Như voi nỗ lực thoát vòng lầy sa.

328. Khi gặp được những người hiền trí

Nên sống chung, thỏa chí đồng hành

Vượt qua tất cả hiểm nàn

Sống trong chánh niệm, an lành niềm vui.

329. Nếu không gặp bạn hiền tuệ đức

Đáng sống chung, hạnh phúc đồng hành

Thà vua bỏ lại nước thành

Như voi cất bước quẩn quanh rừng già.

330. Thà đơn độc, sống trong hạnh phúc

Giới trang nghiêm, không bạn kẻ ngu

Không còn buồn khổ, vô tư

Như voi trong chốn rừng sâu một mình.

331. Thật hạnh phúc, bạn khi cần thiết

Biết đủ là hạnh phúc nào hơn.

Vui thay, chết để đức nhân

Khổ đau chấm dứt, trần gian niết-bàn.

332. Thật hạnh phúc, dưỡng nuôi cha mẹ

Phúc nào hơn kính lễ sa-môn

Vui thay, kính bậc thánh hiền

Phúc thay, chánh niệm hiện tiền ngay đây.

333. Thật hạnh phúc tuổi già có đức

Phúc nào hơn tuệ giác cao siêu

Vui thay, chánh tín, hiểu nhiều

Phúc thay, từ bỏ bao nhiêu ác tà.       O

 

XXIV. PHẨM THAM ÁI

(Taṇhā-vagga)

334. Người dễ dãi sống đời phóng dật

Như dây leo, ái dục tăng nhanh

Đời này kiếp khác chuyền cành

Như vượn luyến thoắn tham ăn quả rừng.

335. Người nào sống trong vòng ba cõi[25]

Bị lòng tham khát ái buộc ràng

Khổ sầu, bất hạnh gia tăng

Như trời mưa, cỏ tràn lan ruộng vườn.

336. Người nào sống trong vòng ba cõi

Chuyển hóa xong tham ái buộc ràng

Khổ đau, sầu não tiêu tan

Cũng như giọt nước lá sen, lo gì.

337. Này đệ tử, Như Lai chỉ dạy

Nhổ cội căn tham ái buộc ràng

Phá tan uy lực ma quân

Như dòng nước lũ ngập tràn bụi lau.

338. Như cây đốn, gốc còn lại sống

Sẽ đâm chồi mọc vững như xưa

Ái tùy miên[26] khó giã từ

Khổ đau già chết dây dưa nhiều đời. O

339. Ba sáu ái[27] như dòng thác chảy

Cuốn người theo khả ái, vấn vương

Các nguồn tư tưởng ái thương

Cuốn người tà kiến vào đường trầm luân.

340. Dòng ái dục chảy quanh khắp chốn

Như dây leo đeo bám thân cây

Dùng gươm trí tuệ diệt ngay

Dây leo tham ái tại đây, bây giờ.

341. Bị ám ảnh niềm vui ái dục

Mong bình an chẳng được vào đâu

Không còn tham ái đuôi đầu

Sanh già kết thúc, khổ đau không còn.

342. Người bị vướng niềm vui ái dục

Sống vẫy vùng, hoảng hốt, buộc ràng

Cũng như thỏ bị lưới giăng

Chúng sanh đau khổ trầm luân lâu dài.

342. Người bị vướng niềm vui tham ái

Như thỏ sa lưới bẫy vẫy vùng.

Người tu rũ bỏ sầu vương

Vượt qua tham ái, thoát đường tử sanh.

344. Lìa rừng dục, vướng vào rừng ái

Thoát được rừng lại chạy theo rừng

Những người như vậy sầu vương

Cởi dây trói lại buộc ràng khó buông.

345. Xiềng bằng sắt, dây, mây cũng đứt

Người dính vào tham dục khó buông.

Của tiền, con cái, vợ chồng...

Như xiềng xích chặt, khó lòng thoát ra.

346. Xích tham ái thật bền, khó chặt

Ghì lún người sắc dục trầm luân

Trí nhân cắt bỏ buộc ràng

Giã từ dục lạc, không màng, thong dong.

347. Người đắm dục tự lao dòng khổ

Như nhện giăng bắt bớ con mồi.

Trí nhân bỏ ái, an vui

Không còn đau khổ giữa đời trầm luân.

348. Buông quá khứ, tương lai, hiện tại

Trí cao siêu, chẳng ngại, thong dong

Đến bờ kia, sống ngược dòng

Không còn vướng kẹt trong vòng tử sanh. O

349. Người bị ý tà sai kích thích

Ái tham tăng, mê tít dục trần

Trói mình trong chốn trầm luân

Vẫy vùng khó thoát khỏi vòng khổ đau.

350. Thường tỉnh giác, quán thân bất tịnh

Dẹp ý tà, an định thân tâm

Diệt tan ma ái buộc ràng

Sống trong tự tại, tinh thần lạc an.

351. Đích cứu cánh đạt rồi hết sợ

Lìa ái tham, ô uế, não phiền

Nhổ tên sanh tử hiểm nàn

Đây là thân chót, trầm luân không còn.

352. Lìa ái, thủ, đây là thân chót

Khéo biện tài, từ, nghĩa, trước, sau

Giảng rành chánh pháp nhiệm mầu

Xứng danh bậc trí rộng sâu trên đời.

353. Ta điều phục, làu thông các pháp

Không nhiễm ô, ái diệt, xả buông

Lậu hoặc tan, trí tỏ tường

Không thầy, ta ngộ con đường cao siêu! O

354. Tặng Phật pháp vượt xa bố thí

Lý chánh chân hơn vị ngọt ngon.

Niềm vui pháp hỷ tuyệt trần

Dứt tham ái, khổ trầm luân tạ từ.

355. Vật sở hữu hại người vô trí

Không tìm về hương vị bờ kia[28]

Kẻ ngu đắm của vì si

Mình người bị hại, khó lìa khổ đau.

356. Cỏ phủ kín làm vườn hư hại

Tánh tham lam phá hoại tấm thân

Cúng dường cho bậc vô tham

Thiện nhân sẽ trổ quả lành lớn hơn.

357. Cỏ phủ kín làm vườn hư hại

Tâm hận sân phá hoại tấm thân

Cúng dường cho bậc vô sân

Thiện nhân sẽ trổ quả lành lớn hơn.  O

358. Cỏ phủ kín làm vườn hư hại

Tâm si mê phá hoại tấm thân

Cúng dường cho bậc tuệ quang

Thiện nhân sẽ trổ quả lành lớn hơn.

359. Cỏ phủ kín làm vườn hư hại

Tâm dục tham phá hoại tấm thân

Cúng dường cho bậc lìa tham

Thiện nhân sẽ trổ quả lành lớn hơn.  O

 

XXV. PHẨM TỲ-KHEO

(Bhikkhu-vagga)

360. Thật hạnh phúc, giữ gìn hai mắt

Thật lành thay, giữ tốt hai tai

Giữ gìn lỗ mũi, lưỡi này

Sống trong điều phục ngay đây an lành.

361. Thật hạnh phúc, giữ gìn thân thể

Thật lành thay, phòng hộ ngữ ngôn

Lành thay, phòng ý ngoài, trong

Người tu phòng hộ, không còn khổ đau.

362. Người làm chủ tay, chân, bộ óc

Làm chủ lời, vui thích định thiền

Độc thân, biết đủ, hạnh nghiêm

Xứng danh tu sĩ, trọn nên quả lành.

363. Người tu sĩ giữ gìn cửa miệng

Không cống cao, giảng thiện cho đời

Trình bày pháp nghĩa vừa lời

Ngữ ngôn dịu ngọt, giúp người bình an.

364. Là hành giả mến yêu Phật pháp

Tư duy sâu câu pháp vừa nghe

Để tâm theo pháp, lìa mê

Thực hành chánh pháp dẫn về an vui.

365. Điều mình được không chê lớn nhỏ

Không hờn ganh với kẻ được hơn

Tâm không tùy hỷ: Sầu vương

Vọng tâm trỗi dậy khó mong định thiền. O

366. Dù được ít không chê nhỏ ít

Hạnh siêng năng, giới đức nghiêm trang

Giữ gìn trọn vẹn thân tâm

Chư thiên tán thưởng xứng danh tu hành.

367. Tu vô ngã không còn chấp mắc

Thân là ta, danh-sắc[29] của ta.

Dứt trừ chấp, hết sầu lo

Người tu như thế xứng là Tỳ-kheo.

368. Bậc hành giả từ bi thực tập

Tâm tín thành Phật pháp cao sâu

Chứng nên tịch tĩnh nhiệm mầu

Các hành an tịnh trước sau trong ngoài.

369. Bậc hành giả tát thuyền cạn nước

Thuyền rỗng không, nhẹ lướt thật nhanh

Diệt trừ si, hận và tham

Ắt rằng chứng đắc niết-bàn thong dong.  O

370. Năm độn sử[30] quyết tâm cắt đứt

Năm buộc ràng[31] trừ diệt hoàn toàn

 

Bỏ năm phược,[32] học năm năng[33]

Xứng danh là bậc vượt dòng[34] xưa nay.

371. Làm hành giả hãy tu thiền quán

Không buông lung, say đắm dục trần.

Buông lung như ngọn lửa hồng

Đốt thiêu, gây khổ, khó mong an lành.

372. Thiếu trí tuệ khó mong thiền quán

Không định thiền khó đặng trí mầu

Ai người định, tuệ thâm sâu

Niết-bàn chứng đắc trước sau rõ ràng.

373. Bậc hành giả ẩn tu nơi vắng

Gìn tâm tư, yên lặng hiện tiền

Quán theo chánh pháp, hành thiền

Hưởng nguồn hạnh phúc siêu nhiên lạ thường. O

374. Người chính niệm thấu nguồn sanh diệt

Thọ, tưởng, hành, nhận thức, xác thân

Hưởng niềm an lạc, hân hoan

Các hàng bất tử hiểu rành trước sau.

375. Người có trí, sống luôn tri túc

Gìn giác quan, tu tập pháp môn

Tinh cần, giới hạnh vẹn tròn

Thân gần thiện hữu, không còn sầu đau.

376.  Khi ứng xử chánh chân, thân thiện

Hạnh đoan trang thể hiện trong ngoài

Thấm nhuần hỷ lạc hiện đời

Khổ đau kết thúc, thảnh thơi niết-bàn.

377. Như cây lài bỏ cành tàn úa

Mau hồi sinh cho lá thêm xanh

Cũng vầy, tu sĩ chánh chân

Thực hành tinh tấn, tham sân dứt trừ.  O

378. Bậc tịch tịnh chuyên tâm tu tập

Thân tịnh thanh, lời nói an lành

Thực hành thiền định chuyên cần

Bỏ thế sự, hướng niết-bàn an vui.

379. Người tu học tự mình dò xét

Đánh giá mình nhân cách đục trong

Giữ gìn chánh niệm, tự phòng

Trụ an lạc, để tâm không muộn phiền.

380. Người tu Phật tự mình nương tựa

Tìm được nguồn ẩn trú bản thân

Tự mình điều phục nguồn tâm

Như người buôn có ngựa thuần đường xa.

381. Người tu sĩ tâm thường hoan hỷ

Đặt niềm tin pháp vị cao siêu

An lành tịch tịnh trọn nên

Các hành hữu lậu lặng yên, nhẹ nhàng.

382. Bậc hành giả tuổi đời tuy nhỏ

Tu pháp môn sáng tỏ nguồn tâm

Trí mầu soi sáng thế gian

Như vầng trăng thoát mây ngàn bủa giăng. O

XXVI. PHẨM BÀ-LA-MÔN

(Brāhmaṇa-vagga)

383. Hãy tinh tấn dứt dòng ái dục

Bỏ thú vui vật chất bao đời

Các hành đoạn diệt, thảnh thơi

Bà-la-môn ấy rạng ngời vô vi.

384. Nhờ an trụ pháp tu chỉ, quán

Mà tiến về bỉ ngạn an vui

Bà-la-môn trí sáng ngời

Diệt trừ kiết sử, thảnh thơi đạo vàng.

385. Người không chấp bờ này, bờ nọ

Tâm chẳng màng chấp có, chấp không

Khổ đau dứt, trói buộc buông

Người tu ấy Bà-la-môn tuyệt vời.

386. Tu thiền định, ẩn cư, không nhiễm

Lậu hoặc lìa, bổn phận đã xong.

Hoàn thành mục đích tối tôn

Người tu ấy Bà-la-môn sáng ngời.    O

387. Trời, trăng sáng ngày, đêm tùy lúc

Các vua quan sáng rực kiếm cung

Tu thiền chói sáng ngoài trong

Trí tuệ Phật sáng soi chung đất trời.

 388. Người dứt ác xứng hàng Phạm chí

Hạnh thanh cao xứng vị Sa-môn

Xuất gia hết cấu uế tâm

Xứng danh thượng sĩ xuất trần xưa nay.

389. Đừng hãm hại Sa-môn, Phạm chí

Gặp nghịch duyên xin chớ trả thù.

Khổ thay, hại bậc chân tu

Chớ nên trả đũa oán cừu mà chi.

390. Bậc Phạm chí tâm không tham ái

Không trả thù, sân, hại một ai

Khổ đau dứt sạch trong ngoài

Niềm vui to lớn, nạn tai không còn.

391. Người không tạo nghiệp nhân ác độc

Miệng, ý, thân trau chuốt, giữ gìn

Hành vi, lối sống tịnh thanh

Xứng danh Phạm chí hiền minh, đức từ. O

392. Biết đền đáp ân sâu của bậc

Hướng dẫn ta hiểu Phật, Pháp, Tăng

Thành tâm lễ tạ, cúng dàng

Như người Phạm chí thờ thần lửa kia.

393. Gọi Phạm chí đâu vì bện tóc

Giai cấp hay chủng tộc bảy đời

Chân thành, chánh niệm, thảnh thơi

Bà-la-môn ấy sáng ngời đức tu.

394. Phạm chí “ngố” chỉ lo bện tóc

Lợi ích gì áo mặc da dê

Tâm còn phiền não, u mê

Tu toàn hình thức, đường về còn xa.

395. Phạm chí “ngố” mặc y vá nhớp

Da lộ gân, thân hốc hác gầy.

Người tu thiền định đêm ngày

Bà-la-môn ấy sánh tày núi cao.         O

396. Phạm chí thật đâu do huyết thống

Giai cấp cao, nguồn gốc thọ sanh.

Ai không phiền não, tịnh thanh

Phạm chí không chấp, cõi tâm an lành.

397. Người dứt sạch cả mười trói buộc

Không sầu lo được, mất, thua, hơn

Bao điều chấp trước xả buông

Người tu ấy Bà-la-môn tuyệt vời.

398. Bậc Phạm chí bỏ đai “sân hận”

Cắt cương “tham”, tà kiến, tùy miên

Vô minh hết, trí trọn nên

Hướng về giác ngộ, thoát miền trầm luân.

399. Lấy đức nhẫn làm quân xông trận

Không ác tâm, phỉ báng, phạt hình

Từ bi, từ bỏ hận, sân

Bà-la-môn ấy sáng danh đạo đời.

400. Không tức giận, làm tròn bổn phận,

Giới thanh cao, ái, hận không còn

Giác quan làm chủ luôn luôn

Thân này cuối, Bà-la-môn sáng ngời.

401. Người đã dứt dục tâm hoen ố

Có khác gì “nước đổ lá sen”

Cũng như “hạt cải đầu kim”

Bà-la-môn ấy xứng hàng chân tu.      O

402. Phạm chí học trên đời hiểu rõ

Nào khổ đau, gốc khổ, niết-bàn

Nương theo chánh đạo tu hành

Ái sạch, giải thoát, rạng danh trên đời.

403. Người có trí thực hành hiểu rõ

Nguồn gốc từ hai nẻo chánh tà.

Chứng đạo giải thoát sâu xa

Bà-la-môn ấy thật là xứng danh.

404. Không thân thiết cả Tăng lẫn tục

Hạnh độc cư, thiểu dục, hài lòng

Như mây đây đó thong dong

An vui, tự tại, không còn sầu đau.

405. Ngừng nghiệp sát, tổn thương sinh mạng

Yếu hơn ta hay mạnh khỏe hơn

Không ưa sai bảo, tán đồng

Đây là Phạm chí xứng hàng chân tu. O

406. Sống thân thiện giữa bao thù nghịch

Giữ ôn hòa với địch hung hăng

Tịnh thanh giữa chốn hồng trần

Bà-la-môn ấy xứng hàng chân tu.

407. Người tu tập không còn dính dáng

Tham, sân, si, kiêu mạn, tị hiềm

Cũng như hạt cải đầu kim 

Bà-la-môn ấy trọn nên đạo vàng.

408. Người tu tập nói lời từ ái

Chân thật và ích lợi cho đời

Không hề làm mất lòng người

Bà-la-môn ấy sáng ngời tấm gương.

409. Người tu tập tránh xa trộm cắp

Vật không cho không lấy, chỉa chôm

Cho dù lớn, nhỏ, quý, thường.

Bà-la-môn ấy tấm gương sáng ngời.

410. Không tham vọng đời này, đời tới

Không dính gì ba cõi trầm luân

Buông tất cả, giải thoát tâm

Bà-la-môn ấy rạng danh đạo đời.      O

411. Người tu tập không vương ái dục

Trí tuệ nhiều, nghi hoặc không còn

Chứng vào cảnh giới niết-bàn

Bà-la-môn ấy xứng hàng chân tu.

412. Ai không vướng chuyện đời thiện ác,

Tu xả ly, giải thoát buộc ràng

Không sầu, thanh tịnh, lạc an

Bà-la-môn ấy xứng hàng chân tu.

413. Như trăng sáng thoát mây che khuất

An tịnh lòng, hết trược, sáng trong

Đam mê hiện hữu dứt xong

Bà-la-môn ấy vào dòng thánh nhân.

414. Hết tham ái, không nghi, không chấp

Vượt hiểm nguy sống chết, luân hồi

Thực hành thiền định, đến nơi[35]

Phạm chí tịch tịnh, thảnh thơi vượt dòng. O

415. Vì lý tưởng xuất gia, học đạo

Lìa gia đình, dục lạc chẳng màng

Dứt trừ hiện hữu, ái tham

Bà-la-môn ấy xứng hàng chân tu.

416. Vì lý tưởng xuất gia, học đạo

Lìa gia đình, khát ái chẳng màng

Dứt trừ hiện hữu, ái tham

Bà-la-môn ấy xứng hàng chân tu.

417. Tu thoát khỏi buộc ràng hai cõi

Thế giới người, cảnh giới chư thiên

Buộc ràng, giải thoát không còn

Bà-la-môn ấy vào dòng thánh nhân.

418. Không vướng bận những điều ưa ghét

Hết sanh y[36], năm uẩn[37] vượt qua

Anh hùng chiến thắng nhiễm ô

Bà-la-môn ấy thật là chân tu.

419. Ai hiểu rõ đường đi sống chết

Không nhiễm ô, sáng suốt vượt lên

Học Tứ đế,[38] ngộ lý chân

Bà-la-môn ấy xứng danh tu hành.     O

420. Với hành giả mà trời, thần, quỷ

Không một ai biết chỗ tái sanh

Lậu hoặc hết, chứng thánh nhân

Bà-la-môn ấy xứng hàng chân tu.

421. Người không dính vị lai, quá khứ

Hiện tại thì chẳng sở hữu gì

Xả buông, chẳng kẹt thứ chi

Bà-la-môn ấy sánh vì trăng sao.

422. Như trâu chúa sức thần uy dũng

Bậc anh hùng, chiến thắng nhiễm tham

Trí mầu giác ngộ, tịnh thanh

Bà-la-môn ấy xứng danh tu hành.

423. Rõ quá khứ, vị lai, hiện tại

Cõi trời, người, cảnh giới tái sanh

Mâu ni,[39] thắng trí, viên thành

Tử sanh kết thúc, sáng danh đạo đời.   O

Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật  

(3 lần) O



[1]. Cõi chết.   

 

[2]. Đức Phật, bậc giác ngộ tuyệt đối.        

 

[3]. Hữu học (Sekha): Người hiểu thông Phật pháp, đang trên đường tu tập giải thoát khỏi phiền não chướng và sở tri chướng, để nhập vào dòng thánh, đạt được tâm giải thoát và tuệ giải thoát.

 

[4]. Ám chỉ cõi người và cõi trời, tức con người ngoài hành tinh.        

 

[5]. Hoa Mallika, giống như hoa lài của Việt Nam.

 

[6]. Gỗ Gandha, tức loại gỗ trầm hương Ấn Độ.      

 

[7]. Hoa Vassiki có mùi thơm phức.           

 

[8]. Gỗ Tagara, một loại gỗ thơm Ấn Độ. 

 

[9]. Người tại gia.           

 

[10]. Cơ hội tái sinh trong luân hồi.            

 

[11]. Niết-bàn tại trần gian.           

 

[12]. An trụ pháp gồm hai nghĩa: Tuân thủ luật pháp xã hội và tuân thủ chân lý và luật Phật.       

 

[13]. Tứ diệu đế: a) Thừa nhận khổ đau, b) Xác định nguyên nhân, c) Đạt được hạnh phúc niết-bàn, d) Thực tập bát chánh đạo.               

 

[14]. Loài hai chân chỉ cho loài người.        

 

[15]. Mọi sự vật mang tính điều kiện và hình thành bởi nhiều yếu tố. 

 

[16]. Con đường đưa đến tái sanh và con đường chấm dứt sinh tử.      

 

[17]. Đoạn kiến là quan niệm cho rằng chết là hết, không có kiếp sau, không có nhân quả, luân hồi. Thường kiến là quan niệm cho rằng có một linh hồn thường hằng chịu định mệnh lâu dài trong những kiếp sống.              

 

[18]. Sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưởi, thân, ý) tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh (hình thái, âm thanh, mùi, vị, vật xúc chạm, đối tượng hình dung).        

 

[19]. Tổng đài của sinh tử và luân hồi.         

 

[20]. Vị tu sĩ theo đạo Bà-la-môn. Phật mượn từ này chỉ cho người tu có đời sống thánh hạnh thanh cao. 

 

[21]. Hoài nghi (Phật, pháp, Tăng, đạo đức, chân lý, nhân quả, đời sau) là hỗ tướng thứ năm (bốn hỗ tướng trước là: Tham, sân, si, mạn) có tác hại lớn đối với đạo đức.               

 

[22]. Mười đức của các Phật là Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.    

 

[23]. Năm đức của chánh pháp là: Đến để mà thấy, thiết thực hiện tại, siêu việt thời gian, được người trí khen, đạt mục đích thánh.               

 

[24]. Tài sản thánh gồm có bảy loại: Chánh tín, tinh tấn, hổ thẹn, lương tâm, học rộng, tặng biếu và buông xả.        

 

[25]. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới.        

 

[26]. Năng lực ái dục ẩn tàng trong vô thức, đồng hiện hữu với chúng sanh như một bản năng, có sức thôi thúc và bám cảnh dục lạc khi có điều kiện.              

 

[27]. 36 thứ ham muốn, phát sanh từ sáu dòng giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) tiếp xúc với sáu dòng đối tưởng (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp). Mười hai dòng căn trần này khởi lên trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai tạo thành 36 dòng ái dục.               

 

[28]. Bờ bên kia tượng trưng cho sự giác ngộ và giải thoát.  

 

[29]. Tinh thần và thân thể vốn là hai yếu tố tạo thành con người.        

 

[30]. Năm trói buộc thấp: (1) chấp thân, (2) hoài nghi, (3) giới cấm thủ, chấp khổ hạnh là con đường giải thoát (4) tham, (5) sân.               

 

[31]. Tức ngũ lợi sử tức năm trói buộc cao: (1) sắc ái, (2) vô sắc ái, (3) kiêu mạn, (4) trạo cử, dao động, (5) vô minh.            

 

[32]. Tức tham, sân, si, mạn và tà kiến.      

 

[33]. Năm sức mạnh tinh-thần: (1) niềm tin vững; (2) tinh tấn, (3) chánh niệm, (4) thiền định, (5) trí huệ. 

 

[34]. Bậc vượt dòng là người đã hết sạch mười kiết sử nêu trên, đạt được giác ngộ và giải thoát. 

 

[35]. Đến bờ bên kia, đạt được giải thoát. 

 

[36]. Cơ sở và điều kiện tái sinh gồm tham ái và chấp thủ.    

 

[37]. Gồm thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức.  

 

[38]. Khổ, nguyên nhân khổ, hạnh phúc – Niết bàn và con đường thoát khổ. 

 

[39]. Người tu tập đã chuyển hóa được tham, sân, si và thanh tịnh thân, khẩu, ý.             

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập